Chương 1: Không có kẻ thù

 

Ngày 11-9-2001, ai cũng đều biết đến bản tin những kẻ khủng bố đã gây ra nỗi kinh hoàng tại hai tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại của Mỹ. Nghiên cứu nguyên nhân sâu xa, ta thấy sự khủng bố có mặt trên cuộc đời này từ khi con người biết yêu và ghét. Thù hận được gieo  rắc trong các tình huống khác nhau, phát triển rất nhanh chóng và được nuôi dưỡng dưới hình thức xung đột về ý thức hệ chính trị, ý thức hệ tôn giáo và giữa bản ngã các cá nhân. Bất cứ khi nào, nơi đâu lòng thù hận chưa được rửa sạch thì nỗi khổ niềm đau  và tình trạng khủng bố sẽ có mặt.

Qua chuyên đề này chúng tôi xin chia sẻ lời Phật dạy về cách thức hóa giải lòng hận thù. Đây là những viên thuốc rất bổ dưỡng cho tâm linh. Phục hồi sức khoẻ tinh thần chính là tiến trình tìm lại cuộc sống yêu thương vốn có. Như trong buổi pháp thoại, vị Hòa thượng giảng về đề tài Xóa bỏ hận  thù, xong ngài hỏi các Phật tử:

- Ở trong đây ai đã xóa được lòng hận thù?

Có ông lão khoảng 80 tuổi, đứng dậy xung phong trình bày. Rất nhiều  mắt hướng về phía ông với thái  độ ngạc nhiên.

- Thưa thầy tôi không còn hận thù nữa. Hòa thượng hỏi:

- Ông tu tập phương pháp nào mà hoá giải được hận thù hay thế?

- Thưa thầy, những kẻ phá phách tôi, hại tôi, muốn giết tôi đều bị Diêm Vương bóp cổ chết hết trơn rồi!

Câu trả lời như khôi hài, nói lên trạng thái tâm lý mà nhà Phật gọi là hận thù.  Nó được tiềm tàng dưới dạng cảm xúc “Tuỳ miên,” tức ngủ ngầm, luôn bám víu theo. Rõ ràng ông  lão chưa dứt được lòng hận thù. Đối tượng tạo ra sự thù hận cho ông không còn trên cuộc đời, nên lòng hận thù đó tạm thời được nguôi ngoai.  Nếu như những người đó chưa chết thì lòng hận thù có thể  lớn và trưởng thành  một cách rất trung thành theo cuộc sống của ông. Nghĩa là sau khi ông qua đời nó tiếp tục trở thành người đồng hành và nỗi khổ niềm đau  vẫn tiếp tục tiềm ẩn dưới dạng tùy miên.

Nếu phân tích theo ngôn ngữ triết học Phật giáo, tùy miên là trạng  thái tâm lý ngấm ngầm, luôn bám víu theo con người. Khi ta không thấy sự biểu đạt của lòng sân thông qua lời nói cộc cằn,  hành động thô lỗ thì cứ tưởng sân hận  không còn trong lòng. Nhưng mỗi khi nghe người nào đó khơi lại nỗi khổ đau khó quên trong quá khứ như bị cướp, giết, hãm hại đến nỗi mất hết tất cả nhân quyền, nhân phẩm lúc ấy, nỗi khổ đau và thù hận bắt đầu được kích hoạt sống dậy. Tình trạng đó nhà Phật gọi là tùy miên được  thể hiện như một trạng  thái trương phồng của bong bóng cảm xúc.

Nếu như có chất  xúc tác của những người xung quanh, lập tức khí sân  hận sẽ được bơm vào trong bong bóng tâm của chúng  ta.  Đến khi lực chứa không còn chịu đựng  được  nữa thì bong bóng này có thể  bị nổ tung thành từng mảnh.

Lòng thù hận kích hoạt trong tâm thức con người  rất nguy hiểm.  Đến khi nào tất cả mọi chất xúc tác không còn ảnh hưởng được nữa, hoặc đứng trước những hành động xúc tác đó mà tâm vẫn không lay động thì ta mới có thể tin tưởng được rằng mình đang sống trong trạng thái cảm thông, hỷ xả, bao dung. Lúc  đó an lạc bắt đầu có mặt, như là một dòng tĩnh  lặng không hề gợn sóng trên bề mặt tâm thức.

Tùy miênlàm cho con người phải chạy theo quán tính. Quán tính này được nuôi dưỡng bởi sự biện hộ thông qua phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, là phải trả thù, phải răng đền răng, máu đền máu, ai mang nỗi khổ cho mình thì phải đền trả lại nỗi khổ cho  người  đó. Dĩ nhiên, kể  cả chủ nghĩa yêu nước cũng  được  đặt trên  nền tảng  của lòng hận thù.

Nhà Phật dạy ta uống nước phải nhớ nguồn, yêu quê hương, tổ quốc, giống nòi, yêu tất cả các loài động vật, môi trường và thiên nhiên. Nhưng, khi đứng trước hoàn cảnh bi đát của lịch sử, giặc ngoại xâm đang thôn tính, mang lại nỗi khổ niềm đau cho dân  tộc thì phản ứng tự vệ để ngăn cản tất cả những cưỡng lực ngoại xâm trỗi dậy. Sự dấn thân của những người yêu nước có thể được  chấp nhận dưới hình thức làm vì nghĩa lớn. Trong nghĩa lớn vì dân tộc đó, nếu được cộng thêm tinh thần từ bi của đức Phật dạy, thì nghiệp sát sanh có thể được giảm đi rất nhiều.

Trong tình huống bộc  lộ cảm  xúc  quá  mạnh,  không kiềm chế được,  ta có thể  quát  tháo, chửi bới,  đánh đập  và thể hiện bất cứ điều  gì để cho  nỗi khổ niềm đau  được lắng dịu xuống. Nên  biết  rằng,  cách  thức  đó chỉ làm  hả cơn giận chứ không phải là phương pháp  để chữa  trị  bệnh  thù  hận,  đang  ngấm ngầm hoạt động trong  cơ thể.

Trong kinh Tăng Chi,  đức  Phật  dạy  có bốn  tình huống, theo đó, lòng thù hận được  trưởng dưỡng  và rất  khó  tháo gỡ khỏi mảnh đất tâm của con người.

Tình huống thứ nhất: Thái độ tâm lý lấy mình làm  hệ quy chiếu, coi giá trị hạnh  phúc, mạng  sống, tuổi thọ là tất cả, bất cứ người nào đụng đến  bản ngã đó thì xem như là đối thủ  của mình. Mỗi khi nhớ lại những  cảnh tượng  đã tạo cho  mình khổ đau, hận thù  sẽ được nhen  nhúm và thể  hiện.

Tình huống thứ hai: Xuất hiện dưới dạng  thức ngã sở hữu. Những người thân, đồng loại... bị kẻ thù  làm  thương tổn, được quan  niệm như đã từng  làm  thương tổn đến bản thân  mình. So hai tình huống, đôi lúc kẻ thù  làm  thương tổn chính mình thì có thể  tha thứ, vì nỗi khổ niềm  đau  có thể  được xoa dịu theo năm tháng. Nhưng khi nhìn thấy những  người thân thương bị cùng cảnh  huống  khổ đau  đó, ta không  dằn được  cảm xúc và lập tức lòng thù hận gia tăng.

Tình huống  thứ ba: Phức  cảm  tâm  lý, xảy ra khi ta biết được ai đang hỗ trợ cho người  mà ta không ưa thích.  Trạng thái không ưa thích kẻ thù  dẫn đến không ưa thích những  người liên  hệ đến  kẻ thù,  làm  cho ta không tùy hỷ với những thành công  của người. Trạng thái  này tiềm ẩn dưới  hình thức rất vi tế là lòng đố kỵ, tánh ganh  đua,  sự cạnh tranh. Họ không muốn người khác hơn mình, thay thế vị trí của mình trong xã hội.

Tình huống thứ tư: Đối với những người ta thương yêu nhưng  lại được người khác chăm sóc vỗ về, cảm xúc ghen tuông lập tức có  mặt. Ta chỉ muốn biến người đó trở thành sở hữu của tình yêu mà  không người nào được quyền hưởng đặc ân đó. Như vậy dòng cảm  xúc muốn chiếm hữu dễ trở thành thù hận.

 Bốn  tình huống vừa nêu  làm cho con người sống quán  tính  theo hai thái cực: bên bạn, bên thù; một bên chấp nhận và một  bên loại trừ. Tính cách chấp nhận và loại trừ đẩy ta vào tình thế đối  lập với người khác, giống như mặt trời và mặt trăng, đêm và ngày.

CHỦ NGHĨA CỰC ĐOAN

Con  người hay  lấy bản ngã của mình làm trục xoay, cân đo tất  cả hệ giá trị  của cuộc đời. Trục xoay xung quanh hệ  ý nghĩa của bản ngã làm con người  trở nên cực đoan, không chấp nhận người  khác,  chỉ chấp nhận  chính mình và cho mình là chân  lý. Đó  là lý do tại sao Adolf  Hitler lại không thích người Do Thái. Vì nếu người  Do  Thái còn tồn tại thì trí khôn  của Hitler đâu  có là gì so  với dân tộc đó.

Từ Thứ bị Tào Tháo ghét bỏ vì Từ Thứ là người lương thiện có tài, lại thường phát hiện lỗi của Tào Tháo. Những chiến lược của Châu Du  luôn bị Khổng Minh vô hiệu hoá nên ông phải  thốt  lên lời than  “Trời đã sanh Du rồi sao  lại còn sanh Lượng nữa”.

Thái độ đặt mình trên bàn cân với người khác và muốn trọng lượng nghiêng về bản ngã của mình, sẽ làm cho ta không nhìn được sự thật. Có rất nhiều người trong cuộc đời này giỏi hơn, tài hơn ta nhưng vì lòng đố kỵ đã biến ta thành kẻ ganh ghét những ai tài giỏi hơn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, ông vua nào đề cao bản ngã thì khổ đau sẽ có mặt khắp đất nước. Cho đến lúc nào trục xoay bản ngã vẫn còn lăn trên bề mặt của cuộc đời thì vẫn còn sự gập ghềnh cảm xúc khổ đau, bất hạnh.

Như vậy vận mệnh, cộng nghiệp của dân tộc, của quốc  gia trong bước ngoặt lịch sử bị cuốn hút  bởi những trục xoay bản ngã  lớn.  Nó để lại nỗi khổ niềm  đau  cho  rất nhiều  người,  mỗi khi nghe đến những  con người  đó, ta khó  có thể  quên  được. Điều  này đã làm  cho nhiều  người  bất đắc chí, không còn lối thoát,  đến nỗi phải cúng dường cho  cá (đi vượt  biên chết) mà không cần đốt nhang. Nhớ đến những  cảnh tượng  đó đôi lúc ta ăn không ngon, ngủ không yên dòng cảm xúc cứ tiếp tục vận hành và khống chế đời sống hạnh phúc rất nhiều.

Mỗi lần, liên tưởng  đến cảnh tượng  tòa tháp  đôi của Mỹ bị sụp  đổ chỉ trong vài phút, cả thế  giới  kinh hoàng  sửng  sốt - nỗi sợ bắt đầu len lỏi trong từng mạch máu. Nỗi sợ hãi đó đã làm cho  người ta bị đóng băng, không  dám đi đến những  nơi công cộng vì việc đánh bom, tự  sát có thể  xảy ra... Cái tôi loại  trừ đã làm cho  nhân loại trở thành  nạn  nhân và khổ  đau cứ tiếp  tục gia  tăng, sự thù hận cũng theo đó mà bùng phát.

Làm sao không  thù được,  khi người  thân  của mình đột ngột qua  đời, gia  tài sự  nghiệp cũng theo  đó mà bị ảnh  hưởng, đời sống sa  sút, kéo theo cả  một vùng khổ đau  nên ta giận cũng phải lắm chứ! Đó  là tâm  lý của con người.

Tâm lý học  Phật giáo dạy chúng  ta phải có cái  nhìn thật bình tĩnh, để cứu  mình trong những  biến cố khổ  đau. Con người  đôi lúc không  đủ sức  để tránh được những biến cố, dẫn đến bế tắc  và giao phó thân mạng cho may rủi. Họ tự an ủi theo cách thức  tâm niệm  của dân gian “Trời  kêu ai nấy dạ,” nghĩa là cái  hoạ,  cái chết  đã được an bài,  dầu  có trốn tránh cũng chưa chắc thoát khỏi. Quan  niệm về sự  an bài đó tạo  cho ta cảm giác an toàn  nhất  thời.  Cứ đi chợ, sinh  hoạt, du lịch, ngoại giao, làm kinh tế rồi  chuyện ra sao thì ra.

Dĩ nhiên trạng thái đó chỉ giúp mình vượt qua khỏi những biến cố ở một mức độ. Phân tích bề mặt sâu thẳm của dòng chảy cảm xúc, thì ta biết trạng thái an lạc đó chỉ là tạm thời. Nó được phủ trùm bởi một cưỡng lực trấn an có ý thức của con người là “Cứ liều đi, bây giờ mình có làm gì cũng đâu khác hơn được”. Ứng phó như vậy là chưa tìm cho mình giải pháp thật sự hiệu quả.

Ta  hãy phân tích bản chất của cuộc sống như quy  luật vận hành tiến trình theo chu kỳ: Sanh,  trụ, dị, diệt. Sanh  ra, lớn lên, già bệnh  và chết đi. Vũ trụ  có sự  hình thành chuyển biến rồi tan hoại. Không có cái nào thoát khỏi quy  trình đó.

Như vậy liệu  sự sợ hãi cái chết  có thể  giúp  cho con người thoát khỏi nỗi khủng  hoảng của nạn khủng bố hay  không? Câu trả lời chắc  chắn  là không. Như  vậy, chẳng  có lý do gì để đổ dồn cảm  xúc vào sợ hãi. Hãy tập trung bồi dưỡng  đời sống đạo đức, tuệ  giác, để gieo  trồng tất  cả những  phước lực cần  có trong cuộc đời. Phước  lực  này chính là hàng rào hộ vệ mạng  sống và tuổi thọ con  người.

Người xưa  thường nói: “Đức trọng  quỷ thần  kinh,” đức của mình sẽ vượt ra khỏi mọi biến cố cộng nghiệp;  người ta có thể bị mất mạng, nhưng mình chỉ bị thương tật; người ta có thể bị thương tật, mình chỉ bị trầy xước;  người  ta có thể  bị té ngã còn mình vẫn không hề hấn gì. Sự khác nhau trong cùng những biến cố đó khẳng định một điều là do nền tảng của đời sống phước  đức ta gieo trồng trong cuộc đời một cách có ý thức hay không.

Hiểu được như vậy ta vẫn cứ làm,  sinh hoạt,  đối tác, ngoại giao, di chuyển  mà không  hề sợ bất cứ điều  gì. Trạng  thái đó hoàn toàn  khác  hẳn  với tâm  lý liều  mạng,  cuốn theo  chiều gió như định mệnh đẩy đưa.

NGHỆ THUẬT  BUÔNG  XẢ

Dòng cảm xúc hận thù tùy thuộc  rất nhiều  vào thái  độ sống và tâm lý ứng  xử của  con  người. Cũng trong một  biến  cố, nỗi khổ niềm đau  như nhau, thế  mà có người có thể  quên đi trong vòng  vài ngày,  có người vài năm, có người vài mươi năm, có người mang theo đến đời sau,  khi sanh ra tiếp tục mang  hận thù  mà mình không  hề biết tại  sao  mình lại  hận thù họ.  Có những giao thoa từ hận  thù  tạo  ra sự tắc nghẽn trong mối quan hệ đối  tác. Điều này đã làm cho rất nhiều người bị khổ đau kéo dài từ đời này sang kiếp nọ. Để có trạng thái an lạc, thảnh thơi, đức Phật dạy hãy chuyên tâm thực hành buông xả. Nếu muốn giảm tối thiểu lòng hận thù thì phải trưởng dưỡng sự buông xả một cách có ý thức và có nghệ thuật.

Sự buông  xả  được ví như cách ta xé mảnh giấy nợ của ân oán giang hồ giữa  ta và người. Người tạo ra khổ đau  có thể  nghĩ rằng họ làm vì công bằng, hoặc không  có lựa  chọn nào khác; trong khi đó ta là nạn  nhân  hoàn toàn bị động.  Cái chết ập đến, khổ đau  chầu chực,  bất hạnh có thể  diễn  ra với ta theo  cách thức này hay  cách thức khác dưới sự chủ đạo ý  thức  của người kia, do đó nỗi khổ niềm đau  của ta dễ dàng  gia tăng.

Buông xả được  thiết  lập thì món nợ được an bài. Nếu mạnh dạn xé đi giấy nợ, thì tâm ta sẽ được thoải mái, an lạc. Còn giữ nó  là đang  nuôi ong  tay áo, có ngày  bị  chích  đau điếng; hoặc như đang giữ ngọn  lửa trong căn nhà,  có thể  tạo  ra hỏa hoạn.

Trong sự thiêu cháy của lòng sân. Kẻ thù chưa chắc đã bị đốt, trái  lại, người ôm hận đang nỗ lực có ý thức thiêu đốt chính mình và  người thân. Truyền dòng cảm xúc hận thù đó cho người thân hay  bất kỳ ai, thì hận thù tiếp nối hận thù không tháo gỡ được. Trong kinh Đại Bảo Tích, đức Phật đưa  ra ẩn dụ về con khỉ  đang nhảy từ cành này sang cành khác, bất thình lình, cành cây  gãy, nó bị rơi xuống đầm lầy. Nó càng vẫy vùng thì càng bị chìm  sâu, cho đến lúc không còn đủ sức để vẫy vùng nữa thì chết. Đức  Phật dạy, dòng cảm xúc khổ đau của hận thù cũng như vậy.

Khi ta bị một  mũi  tên của hận thù bắn vào tim thì sự đau nhói  làm cho ta giãy giụa. Đức Phật  dạy  nghệ  thuật  tháo  gỡ bằng  cách  đừng  dùng  đuôi  của mũi  tên  để kéo ra, vì kéo như vậy mũi  tên theo thế nghịch sẽ xé  da thịt  bên trong. Tốt nhất phải chịu đựng,  có bản  lãnh cầm  lấy mũi  tên  bẻ gãy phần đầu, sau đó mới  dùng  hết sức bình sinh, rút mũi  tên ra. Chịu đau một chút nhưng sau đó ta còn  có cơ hội  để chữa lành. Nếu lúc đó ta vội vàng giãy giụa,  muốn  trả đũa, thể hiện tất cả nỗi khổ niềm đau, là chính ta đã tự  biến mình thành  nạn  nhân  lần thứ hai. Mỗi lần tâm niệm  hận thù xuất hiện thì ta trở thành nạn nhân  lần nữa, dẫn đến tự hoại  lần hồi mà không hay. Như  vậy, ý  thức về tác nhân  gây ra khổ đau  là  nguyên nhân sinh ra nỗi hận thù rất lớn.

Để xóa bỏ hận  thù có hiệu quả,  trước nhất hãy quán  tưởng  không có tác nhân gây ra. Dù họ có cố ý hay vô tình cũng không  thành vấn đề. Quán như vậy, để  ta không gieo hận  thù. Nếu  không buông xả thì mắt xích khổ đau giữa ta và người sẽ gút  mãi,  sau đó nhân  lớn  vòng mắt  xích này  liên  thông qua gia  đình mình, dẫn đến hễ ghét người nào là ghét luôn cả dòng họ.

Từ một  cảm  xúc của khổ  đau  nhỏ nhoi biến thành một vùng từ trường ảnh hưởng  lây lan rất lớn,  đến  độ gặp những người không hề liên  can  trực  tiếp ta vẫn cảm thấy khó chịu  khi biết được giữa  họ  có cùng  ý thức  hệ, quan  điểm, khuynh hướng trong cuộc sống.

Như vậy, tác nhân  của nỗi khổ niềm  đau, dưới  góc độ tâm lý  trị  liệu, không  phải do kẻ thù,  mà chính nạn nhân không buông bỏ được  cảm giác hận thù tạo ra. Vì vậy sự trả đũa không phải là giải pháp lâu dài. Trong kinh Pháp Cú có câu:

Hận thù diệt hận thù

Đời này không  được

Từ bi diệt hận thù

định luật nghìn thu”.

Chỉ  có tình thương, lòng  từ bi, sự tha thứ  mới  có thể  chấm dứt hận thù một cách vĩnh  viễn. Đây là quy luật của muôn  đời, nghĩa là nó  không chỉ có giá trị trong hiện  tại mà còn tiếp tục có giá trị vĩnh  viễn trong tương lai.

Để tháo gỡ lòng hận thù, thực tập pháp quán không có tác nhân tạo ra khổ cho mình, sẽ có hiệu quả nhanh chóng và lâu dài. Không nên nghĩ rằng “Tôi cần phải trả thù vì tôi yêu nước, hoặc là tôi phải trả thù vì lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đã qua đời”. Tư duy về tác nhân là một trong những cách làm cho con người bị bế tắc, trong hướng giải quyết vấn đề toàn triệt. Quán chiếu như vậy để thấy rằng kẻ thù của nhân loại hay kẻ thù của khổ đau chính là lòng tham không đáy, lòng sân như lửa bỏng, sự si mê đắm nhiễm, chứ không phải là con người. Con người chỉ là công cụ của ý thức mà thôi.

Muốn tháo gỡ hận thù  và không gieo rắc khổ đau cho người khác, tốt nhất ta chuyển ý  thức  từ cực đoan trở thành ý  thức khoan dung, rộng mở, biết tôn trọng sự sống.  Có như thế ta mới bước vào và mở rộng  bầu không  gian an lạc  vô cùng tận.

KHOANH VÙNG CẢM XÚC

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy nghệ thuật không  nhân lớn khổ đau.  Nghệ thuật  đó có thể  được triển khai dưới nhiều góc độ tâm  lý:

Thứ nhất  là  khoanh vùng  cảm xúc khổ đau để  lòng  hận thù  chỉ có mặt  trong vùng này thôi. Cách  thức đó, có thể  hình dung  giống như đưa vi khuẩn vào cơ  thể qua  tiêm chủng,  tạo ra vùng kháng thể, cô lập hoàn toàn  vi trùng  độc hại  xâm nhập vào. Tương tự, khoanh vùng  cảm xúc của lòng  thù hận lại  để nó không lan truyền cho thân  bằng  quyến thuộc. Nếu để nó truyền,  chẳng những  mình mà người  khác  cũng  bị khổ đau tương tự. Nếu thương thân bằng quyến thuộc và bản  thân thì trước  hết hãy khoanh vùng cảm  xúc giận  dữ đó lại.

Khoanh vùng như thế,  tạo  cảm  giác an toàn  khi ta chưa đủ sức chuyển hóa nó bằng  cách quán  “Không có tác giả”  thì ít nhất ta vẫn  có thể sống  được yên ổn. Quán  tưởng nhiều về cảnh giới của sự sống,  bỗng  dưng ta cảm thấy mình cần  có tình thương yêu  để thay thế những  nỗi khổ đau trong quá khứ.

Khi quan  niệm về tình thương yêu, ta có thể  tự  an ủi rằng: Có  lẽ trong kiếp  nào đó, mình đã từng tạo  ra cảnh ngang  trái cho người khác. An ủi  như thế giúp  cho mình buông đi nỗi thù hận ở  mức  độ nhất định.  Tuy  nhiên,  nếu ai quy  hết trách nhiệm về quá  khứ  thì người đó sẽ rơi vào chủ nghĩa định mệnh, không  phát khởi nỗ lực  rằng “Tôi  phải làm lại cuộc đời, phải cách tân, thay đổi, phấn đấu, vươn lên”.

Quy trách nhiệm về quá khứ chính là kẻ thù của sự tiến hóa.  Dù tin vào nhân quả nhưng ta phải xác định rõ những hạt giống  đã gieo trồng trong quá khứ. Nó sẽ tồn tại dưới dạng thức năng  lực và năng lực này được kích hoạt theo quán tính của thói quen.  Quán tính đó có thể chi phối đời sống sinh hoạt, tư tưởng, ý thức của ta khoảng 30% đến 50% là hết. 50% đến 70% còn lại lệ thuộc  rất nhiều vào ý thức tư duy, hành động, lời nói, việc làm, cử chỉ và  cách thức giao tế.

Ý  thức được  như vậy thì ta không đổ lỗi cho quá khứ.  Đổ lỗi cho quá khứ  có thể  dẫn  đến  tình trạng đổ lỗi cho  thời cuộc, hoàn  cảnh, bất cứ cái gì mà ta có thể gán ghép. Người như thế sẽ rơi vào tình trạng bế tắc không có lối thoát.

Hóa giải hận thù là nhu cầu rất cần thiết. Hãy bình tĩnh để phân tích rõ ràng nguyên  nhân chủ quan,  khách quan, nguyên nhân  cộng nghiệp của một thời đại,  giai đoạn lịch sử hay  nỗi bất hạnh chung cho cộng đồng. Khi thấy được chân tướng của các nguyên nhân rồi ta hãy bắt tay làm mới cho cuộc đời mình, tập sống trong trạng  thái vô úy. Lúc  đó ta sẽ không  còn bị chi phối bởi những  biến cố đau thương trong đời.

Nếu bế tắc thuộc bóng tối hãy hướng tâm mình về mặt trời; nếu  bế tắc là khổ đau thì hướng tâm về hạnh phúc; nếu bế tắc là thù  hận thì hãy hướng tâm về sự tha thứ; nếu bế tắc là sự ngột ngạt  đơn lẻ thì hãy hướng tâm về một bầu không gian vô tận. Ở đó ta  không hề thấy sự trói buộc ngang trái giao thoa với nhau.

Cứ để tâm mình vào  hư không  rỗng lặng thì hận  thù  sẽ không có chỗ  để bám  víu. Dù muốn bám víu  đi nữa cũng bị rơi vào  trạng thái chân không,  không  bị lực  hút của trái đất chi phối.  Lực  hút của trái đất trong tình huống  này là sự thù hận, tật đố, trạng thái bất an. Bỏ hết  tất  cả những dây mơ rễ má này, ta sẽ tồn tại trong trạng thái chân không,  không  còn dín dáng gì những biến cố cuộc  đời.  Lúc  đó ta sẽ biết tôn trọng và chăm sóc cảm  xúc của mình trong bất cứ trường  hợp  nào. Đây cũng là yếu  tố quan trọng để dẫn đến thành  công trong ứng xử.

Nếu bất hạnh  sanh ra trong truyền thống  văn hóa tương tự Hồi giáo, ta khó  có cơ hội chăm  sóc cảm xúc, vì đã bị tiêm

chủng bằng chủ nghĩa  cực đoan  và  khủng bố. Người  theo  các giáo phái cực đoan có thể  được  nhồi sọ rằng, giết kẻ thù  nhiều chừng  nào thì sẽ sớm có visa vào thiên  đàng chừng  đó. Tâm trí si mê cuồng  tín này đã làm  cho con người dấn thân  vào khổ đau,  tạo ra sự  bế tắc mà họ lại vui  mừng hân hoan tình nguyện.

Quan  niệm về Thánh chiến trong Hồi giáo là sai lầm. Không có chiến tranh nào là thánh thiện. Tất  cả chiến tranh đều mang lại khổ đau  và nạn nhân chính là  những  người dân vô tội.  Dù chiến tranh đó  là chánh nghĩa thì khổ đau  vẫn  luôn có mặt. Nhân chiến tranh lên thành  một chân lý tôn  giáo  đã làm  cho rất nhiều  người  bất hạnh. Nỗi bất hạnh đó kết  thành vòng  từ trường của thù hận.

Khi những chiến sĩ qua đời với lòng thù hận thì trong kiếp sau  họ lại tiếp tục có những trạng thái tâm lý thù hận. Cứ thế mà kết  thành dây mơ rễ má từ kiếp này sang kiếp nọ rất nguy hiểm.

Tóm lại, khoanh vùng nỗi khổ niềm đau  là cách ngắn nhất, theo đó  ta không  nhân  bản, không  lan truyền  khổ đau cho người thân. Những  gì của quá  khứ, hãy  để nó thuộc về quá khứ. Ta là  nạn nhân thì đã chấp  nhận nó rồi, còn thế hệ sau là  những  người không nên chịu cùng một số phận đó, nên  ta đừng để thù  hận  lây lan  cho  người không liên can.

QUÁN ÂN NGHĨA

Phương pháp quán  này là nghệ thuật tìm kiếm những giá trị tích cực ở  người đã tạo ra nỗi khổ niềm đau  cho  ta.  Nhân gian có câu  “Hơi đâu mà giận người  dưng nước  lã,” câu nói này đôi khi cũng đắc dụng. Ví dụ mình đang  giận ai đó, mình nói “Ôi, người dưng  nước lã giận làm  chi”. Mặt  khác,  nó cũng  có tác dụng phụ  mà ta cần phải lưu ý,  vì ngay khi dựa vào  câu  đó là mình đã vô tình dựng  lên một chân lý mới  đó  là “Tôi phải giận những  người thân, nếu họ làm tổn thương mình thì sẽ không tha thứ được”.  Vậy  là tránh vỏ dưa gặp  vỏ chuối.

Ta tự biện hộ cho mình được quyền giận, hận thù những người  mà mình thương nhất, bởi vì họ đã từng hiểu được ta, từng chung  sống với ta, vậy mà họ lại gây ra những trái ngang cho nên nỗi thù  hận đó được gia tăng. Theo cách nhìn tích cực, ta hãy lập luận đối  nghịch  lại, vì họ  là những người  thân cho nên được quyền  làm  những chuyện đó, còn người dưng đâu dám làm, phải thủ lễ, ngoại  giao đàng hoàng. Quan niệm mới để  tìm  thấy giá  trị  tích cực ở  người kia, và lòng hận thù giảm đi rất nhiều.

Đạo Phật dạy phải nhận rõ rằng,  cái tốt hay không chỉ có giá trị về mặt tương đối. Tốt trong tình huống này nhưng sẽ không tốt trong tình huống khác. Ở  những xứ văn  minh về khoa học và vật  chất, thì sự khổ đau  đó  được hỗ trợ  bằng  hệ thống an sinh xã  hội. Ngược  lại, những  quốc gia nghèo  lập luận rằng, phải cho  người  dân khổ đau  để họ  có sức chịu  đựng.  Họ cho  hệ thống an sinh  xã hội này  là nguy  hiểm vì sẽ làm người ta ỷ  lại. Lý luận  nào cũng có chỗ  đúng và sai.  Hệ thống an sinh xã hội được  đặt trên nền tảng tương thân,  thuộc  cùng chất liệu với lòng  từ bi. Nhu cầu đó không thể thiếu, mặc  dù phải  loại  trừ những con  người lợi dụng vào lòng  tốt của chính sách, nhưng chuyện đó  là chuyện phụ.

Đối với vai trò một quốc gia, tất  cả những hỗ trợ tương  tác, lấy lương bổng cao của những người có công ăn việc  làm  hỗ trợ người thất nghiệp nghèo đói hay bệnh  tật là điều cần thiết.  Đặt con  người trong tình huống  làm quen với nỗi khổ niềm  đau  để cho  họ đứng vững, thực chất chỉ là một  lập luận  để an ủi.

Nếu ai lý luận rằng, hạnh  phúc phải có mặt  từ khổ  đau thì người đó sai  lầm, bởi khổ đau  không  thể tạo ra hạnh  phúc. Khổ đau có thể  được sử dụng như một  công  cụ  để ta vươn lên, tìm thấy hạnh phúc. Nếu nói rằng, trong khổ đau  ta có được hạnh phúc thì sai  lầm.  Đó cũng  là  sai lầm  của  Ấn Độ giáo  và nhiều tôn giáo khác. Chẳng  hạn  như cho rằng, cứ đè nén thân  thể bằng cách khổ hạnh  ép xác  như đứng một chân, quanh  năm suốt tháng  không  hề tắm, nằm trên chông gai  để cho  cảm xúc về tính dục không  còn hiện hữu...  và bấy  giờ  trạng  thái hạnh phúc  tối hậu sẽ bắt  đầu  có mặt.

Trên thực  tế, trạng  thái hạnh  phúc chỉ có mặt  khi dòng khổ đau  được  chuyển  hoá. Đặt nền tảng hạnh  phúc trên khổ đau  là ta đã sai lầm ngay  từ căn bản của cách  thức  đặt vấn đề. Đừng rơi vào trạng  thái sai lầm đó, hãy gieo những nhân hạnh phúc để ta có được an vui.

Trong những  biến cố khổ  đau, nếu biết  cách  tỉnh  thức  để quán chiếu về nhân  quả, nghiệp  duyên,  điều kiện, hoàn cảnh... và dấn thân một cách tinh tấn không  mỏi mệt, chán nản thì ta sẽ có  cơ  hội làm mới những  gì mọi  người nghĩ  rằng sẽ không làm được.  Như thế hai khuynh hướng ứng xử khác  nhau sẽ dẫn đến hai hệ quả hoàn  toàn  trái ngược.

Quán về ân nghĩa, để  ta không rơi vào tình trạng vong ân bội nghĩa. Uống nước phải nhớ nguồn.  Tìm một cử chỉ  đẹp của người  tạo ra nỗi khổ đau  cho  mình, để nỗi  hận  thù  không trương sình lên mức tối đa.

Chẳng hạn như trong Tam Quốc Chí, Quan Vân Trường biết  Tào Tháo là kẻ gian hùng, nhưng ông vẫn tìm kiếm những giá trị  tích cực của Tào Tháo để xóa bớt hận thù. Ông luôn nhớ thời hàn  vi, Tào Tháo rất trọng thị ông. Bây giờ biết Tào là kẻ hiểm ác, muốn  trừ hậu hoạ  là phải giết, nhưng giết vì chánh nghĩa chứ không  phải giết vì thù hận. Trước khi ra tay, ông tìm cách trả ơn trước,  bằng cách tha tội chết cho Tào Tháo. Gia Cát Lượng có ý muốn  giúp giải tâm  lý Quan Công và cũng hiểu được thâm tình của  Lưu Bị nên yêu cầu ông ta ký vào hiệp ước “Nếu kháng quân lệnh  sẽ bị chém đầu”. Cuối cùng ông đã chống trái và bị Gia Cát Lượng  ra lệnh chém đầu, rất may nhờ Lưu Bị xin tha và được thoát chết.

Trong câu  chuyện trên, Quan  Công đã quán về ân nghĩa, tìm kiếm những giá trị  tích cực  của người  xấu để nỗi  khổ  niềm đau  giữa mình và  người kia được  tháo gỡ. Trên chiến trường bên nào cũng  phải  bóp cò, ai nhanh thì sinh tồn, ai chậm thì chết, nhưng phải  có tâm chiến  đấu vì chính nghĩa  chứ không nên dùng tâm hận thù. Như thế  lòng thù  hận sẽ được  tháo gỡ và oan khiên không kết chặt.

Có vị tướng trước khi qua đời đã làm  hai câu thơ:

Còn chút rượu nồng xin rót cạn

Giải oan cuộc thế bể dâu này.

Đối với chiến  sĩ, rượu  là một trong những  người bạn giúp họ quên đi nỗi thương vợ, nhớ con  để hướng về trách nhiệm ở biên cương.  Rượu còn là phương tiện  để dồn  nén  lòng  sân hận đối với kẻ thù.  Nhưng ông ta xin tình nguyện  rót hết những  ly rượu  nồng  của sự thù hận đó để mong sao giải oan  cuộc  thế bể dâu, mong cho cuộc đời không còn đau thương  nữa.

Theo đức Phật, nếu ta giải oan  bằng lòng sân thì lòng  sân đó gia  tăng. Giải oan  cuộc thế bằng những  viên đạn thì oan khiên đó sẽ tiếp tục sinh  trưởng. Chỉ có giải  oan bằng  lòng  từ bi, bằng sự tha thứ,  bằng  cách  thức  quán  ân nghĩa thì ta mới thoát khỏi ách tắc trong đời sống cảm xúc của chính mình.

GIEO TÂM QUẢNG  ĐẠI

Tâm quảng đại là một trong những yếu  tố quan trọng của bậc Bồ-tát. Tâm quảng đại đó thường được gieo trồng bằng cách quán đại địa không có sự phân biệt. Quả đất này là nơi dung chứa tất cả những thứ quý báu như vàng bạc, đá quý hoặc chứa những chất thải của con người, vậy nên không hề có chút gì khác biệt về tác dụng.

Kinh Tâm Địa Quán cũng như kinh Hoa Nghiêm Phật dạy, phải quán tâm quảng đại của mình như quả đất để có thể chứa tất  cả nỗi khổ niềm đau, thích và không thích, tích cực và tiêu cực của  những người khác đối với mình. Cũng như rác mà bỏ dưới lòng đất  sau một thời gian thì tất cả sẽ bị hư hoại hết và trở về với đất. Ta  có thể tạo dựng hệ thống tự đào thải tất cả những bợn nhơ tâm lý  bằng cách nhân lớn tâm quảng đại của mình, theo cách sánh ví nó  như bầu không gian vô cùng tận. Không gian vật lý thì có khoảng  cách, mặc dù đến bây giờ chưa biết được biên độ giãn nở của nó là  bao nhiêu nhưng ta tin chắc rằng nó vô cùng.

Khi quán rằng tâm quảng  đại của mình vô cùng  tận  thì nỗi khổ niềm đau  chỉ  là những vật rơi của định tinh nào đó ở trong không gian, thỉnh thoảng ngẫu nhiên  rơi trúng  ngay địa cầu mà mình đang sống.  Cứ nghĩ như vậy thì không có lý do gì để thù hận cái mảnh  thiên  thể khổ đau  đó rớt trên đầu, ngôi nhà, đổ dồn  lên trên  cộng  đồng  của mình. Quan  niệm như vậy là thái  độ ứng  xử tích cực  để tháo  gỡ khổ  đau.

Lịch sử Phật  giáo  Việt  Nam vào thời  Lý, vua Lý Nhân Tông được sự hỗ trợ  đắc lực  của Lý Thường  Kiệt, Việt Nam đã chiến thắng  khỏi  ách nô lệ Trung Hoa. Nhà vua  rất hiểu  đạo  lý Phật giáo nên ông tập theo hạnh Bồ tát,  thay vì giữ thế đối đầu với Trung Hoa thì ông  đã dâng sớ cầu hòa.  Hiệp ước  hòa bình đó được  thiết  lập bằng tâm quảng  đại chứ không phải thủ thuật của chiến  tranh. Đây không  phải là tình thế khi thế lực không cân bằng,  tốt nhất  là  người ta hoãn binh hay tìm cách khác để  thương lượng. Ở  đây vua  Lý Nhân  Tông  phát  xuất  từ lòng thương yêu nhân  dân của hai nước. Chiến tranh sẽ  mang  lại chết chóc và khổ  đau  nên ông phải hạ mình cầu  hòa  để nước Trung Hoa không  uất hận mà sanh ra trả thù, hầu mưu cầu sự thái bình, an vui và hạnh  phúc cho  dân tộc.

Tinh thần  cầu hòa là  nghĩa cử rất  cao thượng, chỉ  những người có chất hùng dũng mới dám làm. Dĩ nhiên  cũng có rất nhiều  người  bán nước  cầu vinh, phải trở thành  thuộc  hạ,  nô lệ cho  một ý  thức hệ nào đó. Lý Nhân Tông đã sáng suốt thấy vận mệnh  đất nước, chỉ có đặt trên  nền  tảng  tình thương yêu và lòng quảng đại mới có hoà  bình thật sự, giúp cho  con  người tháo  gỡ được bế tắc trong cuộc sống.

Trong kinh Đại  Bảo Tích, đức  Phật kể câu chuyện ngụ ngôn về phản  ứng của con chó  và sư tử.

Có anh chàng nọ rất phiền não vì tiếng sủa, tiếng chạy đùa giỡn  của mấy con chó, nó đã làm anh mất ngủ nên anh muốn trả thù.  Anh dùng cục xương to và cầm ná để bắn chúng. Chó bị đau, phản  ứng thông thường là phải tìm những gì đã tạo ra cơn đau. Chúng  thấy đó  là cục xương nên nhào tới cắn xé. Càng cắn xé thì răng  chúng lại càng đau hơn, nỗi đau của thân thể chưa giảm thì nỗi  đau của răng lại bắt đầu có mặt.

Nếu dùng cục xương đó bắn  vào con sư tử, ta thấy phản ứng hoàn toàn khác biệt. Nó  sẽ không  cắn cục xương, cũng không giãy giụa,  kêu la thất thanh trong hoảng  hốt. Cặp mắt  nó  sẽ nhìn liếc  để định  hướng vị trí cục xương  từ đâu  lao tới. Nó biết tác nhân  chính của nỗi khổ niềm  đau  này không  phải là  cục xương mà hẳn  có kẻ đang tác động.

Cách  thức  ứng  xử của sư tử và chó  khác nhau rất xa.  Chó vì thiếu khôn ngoan  nên làm cho  nỗi khổ niềm đau  gia  tăng. Sư tử vì bình tĩnh, tìm cách truy nguyên  nguồn  gốc khổ đau  nó gặp phải. Hai phản ứng khác nhau  tạo ra hai kết  quả  và giá trị khác nhau.

Đệ tử Phật  nên  ứng  xử ít ra như sư  tử. Đừng  bắt chước chó, mà trở nên thiển  cận. Loài chó thường có tính cách a dua,  một con sủa thì cả đàn  sủa theo. Thế giới của loài chó là thế giới của biên cương và  tranh giành,  chủ quyền quản lý biên cương đó theo cách tự khoanh vùng như các  sứ quân”.

Ví dụ trong làng  ấp nào  có 100 con chó, thì chúng sẽ bầu lên chó “tổng thống,” rồi đến  các bộ trưởng. Các cư dân của chúng đều  có hộ chiếu, quốc tịch  đàng hoàng. Để bảo vệ biên cương bờ cõi của chúng, bất cứ con nào ở  chỗ khác tới, chúng  sẽ theo dõi,  cô lập  và tấn công.  Nếu con chó lạ không  đủ sức kháng cự lại đàn chó này thì nó phải  vĩnh  viễn đi chỗ khác, không  có cơ hội tìm kiếm những thức ăn rơi rớt ở  trong khu vực đã có chủ.

Thái  độ liên  minh này thường tạo ra những phản ứng gây khổ đau.  Có thêm liên minh trong sân hận như có thêm những hỗ trợ  của vùng  từ trường tiêu cực, thì người  nối kết liên minh sẽ càng gia  tăng nỗi khổ niềm đau.

Trở lại câu chuyện, khi các con chó nghĩ  rằng tác nhân  gây ra nỗi khổ niềm  đau  của mình là  cục xương,  chúng giành giật cắn cục  xương đó. Thấy cục  xương này có mùi  vị thơm ngon nên  từ chỗ trả thù  dẫn đến chỗ tranh chấp lẫn nhau.  Như  vậy, từ bế tắc thứ  nhất kéo theo bế tắc thứ  hai. Nói cách  khác,  từ bế tắc của lòng  sân dẫn  đến  bế tắc của lòng  tham, muốn  trở thành  chủ nhân  của cục  xương, nhưng không ngờ  đó lại  là đầu mối  của rắc rối.  Cuộc  đời này cũng thế.  Có nhiều người nghĩ sai lầm muốn  biến mình trở thành  chủ nhân  của cảm xúc tiêu cực, nhưng không  ngờ lại thành  nạn  nhân  không  lối thoát.

Nhìn thấy tác nhân gián tiếp không chỉ là cái nhìn phiến diện,  mà còn là phản ứng đôi lúc trở nên thiển cận. Hãy theo hạnh sư tử,  không thù hằn cục xương, vì sự hận thù và trả đũa đó là hoàn toàn  vô ích. Cục xương chỉ là công cụ của anh chàng cầm ná.

Nên hướng  về tác  nhân trực  tiếp và chính yếu  là cách thức ta nhận diện để tháo gỡ nỗi khổ niềm  đau  thật sự. Dĩ nhiên,  tác nhân đó không phải  là  nhân  vật cụ thể. Phật dạy rằng, đừng nên quan  niệm tác nhân  khổ đau là con người  mà là lòng tham sân si, là thái  độ thiếu  sáng suốt. Hiểu  được  điều đó, ta sẽ bình tĩnh như con sư tử, mắt không  nháy,  thân  thể an nhiên  bất động, đi từng bước chậm rãi để định hướng và tìm giải pháp an toàn và bền vững cho niềm đau nỗi khổ của mình.

Cách thức ứng xử đó tuy đơn giản nhưng có hiệu quả cao. Đừng  như hai con gà, hễ mạnh thắng, yếu thua. Trong chiến tranh, cả  kẻ chiến thắng và người thua đều là nạn nhân, chứ không phải chỉ  có người thua mới là nạn nhân. Chỉ có cách dàn trải tình thương,  tháo gỡ lòng hận thù mới thật sự là chiến thắng oanh liệt nhất.

Muốn được  như vậy,  ta đừng tạo  tâm  lý lây lan hận thù. Đừng đem  hận thù của mình gieo rắc cho  những người thân. Không khéo, ta sẽ biến người  thân  trở thành  tấm thớt  của cơn tức  giận, có gốc từ người dưng nước  lã.

Khi muốn chia sẻ vấn đề gì đó  cho người thân,  phải chắc chắn  rằng  người  đó hiểu  mình như thiện  hữu tri thức.  Nếu không, ta không  đón nhận được  những  gì mong đợi và bực tức bắt  đầu  có mặt.  Lúc đó, thay vì giận kẻ thù, người giận cá chém thớt sẽ giận những người thân.

Như vậy trạng thái của lòng hận thù được chuyển sang một bước ngoặt  thứ hai. Nó tiếp tục  bị thay hình đổi dạng  vì được đặt trên  nền tảng của chủ nghĩa cực đoan.  Tức, cho  rằng mình là chân  lý; những gì ta chủ trương phải là đúng; ai không theo là  sai  lầm nên ta chuyển  hướng  tấn công những người không theo mình và biến họ thành kẻ thù.

Thay vì kẻ thù  là tác nhân  đầu tiên,  ta lại nghĩ những người không  tán đồng mình là  những người tạo ra cho mình sự bực dọc.  Cách  thức  ứng  xử đó kéo theo dây chuyền của sự  bế tắc, không  lối thoát.  Trong mọi tình huống ta cứ điềm nhiên, định tĩnh, đem trí tuệ  để giải quyết mọi  việc một cách chính đáng thì tất  cả đều  qua đi nhẹ nhàng.

Trong kinh Bát Đại Nhân Giác có một câu chỉ bốn chữ nhưng rất hay “Quốc độ nguy thúy”. Khái niệm “Quốc độ” trong ngữ cảnh này có thể theo hai nghĩa. Theo nghĩa địa lý, quốc độ là hành tinh ta đang có mặt, trong khi “Nguy thúy” mô tả tính chất tạm bợ, không bền bỉ của vô thường. Nghĩa là hành tinh nào, định tinh nào dù có theo quỹ đạo của nó, cuối cùng rồi cũng đến lúc bị tan rã thành những mảnh như thiên thể rơi trong không gian.

Theo  nghĩa  phát sinh, “Quốc  độ” là quốc gia có  chính thể với ý thức  hệ chính  trị. “Nguy  thúy” trong  ngữ  cảnh này có thể hiểu là bất  kỳ chính thể nào không  thể tồn tại  vĩnh hằng  với thời gian. Nói cách khác, khổ đau  dù do chính thể nào gây ra sẽ không là vĩnh  viễn hay  mãi mãi với ta trong đời.

Tin tưởng nguyên lý  vô  thường là  niềm tin tích cực. Con người sẽ không  còn buồn về những nỗi đau trong quá khứ. Nếu không có những chiếc lá rơi trong mùa thu, đông sẽ không có được những chiếc lá xanh  non  mơn  mởn trong mùa xuân. Quy trình thay đổi của vũ trụ  diễn  ra theo cách thức  riêng  mà ta không  thể nào đặt ý  thức chủ quan bắt nó chạy theo những gì mà mình muốn được.

Hãy  quán  chiếu sự vô thường của cuộc đời, vũ trụ,  vạn  vật để không bị cuốn hút theo nỗi khổ niềm đau.  Ta tin tưởng rằng sau những chiếc lá  rụng đó  sẽ có  lá xanh xuất hiện.  Nhờ vậy đời sống mới bắt  đầu  có mặt, ánh  sáng  xuất  hiện và niềm hy vọng sẽ bừng lên.

THÁO DÂY OAN  TRÁI

Đức Phật dạy hãy nỗ lực tháo gỡ thù hận với những người đã cố ý tạo ra cho ta. Sự tháo gỡ là một trong những nhu cầu rất quan trọng. Ngài nhìn thấy trong đời, rất nhiều người có động cơ sai trái, đến độ họ không chấp nhận người khác được  hạnh phúc,  thành  công nên mới đẩy họ vào trạng thái không có lối thoát, vì vậy khổ đau  cứ mãi  gia tăng  từ kiếp này sang kiếp  khác. Thấy rõ điều  này,  đức  Phật  dạy  ta tháo gỡ hận thù để cuộc sống được hạnh phúc, an vui.

Kế đến, muốn cho cảm xúc khổ đau  không  lây lan thì phải biết  rõ tính cách tích cực  của tác nhân  bằng cách tìm những giá trị  cao  đẹp  của người  đó để ta vơi bớt niềm  đau  từ từ và loại trừ chúng  một cách triệt để.

Nếu không có được  thói quen nhìn  thấy những  tích cực hay  giá trị của người khác, thì ít nhất ta cứ nghĩ rằng mình là một vị  Bồ-tát có tâm lượng rộng lớn. Thay vì giận hờn trả đũa thì có thể  bỏ qua theo cách thức “đừng đánh người dưới ngựa”. Thái độ anh  hùng đó có thể làm cho ta bỏ được hận thù. Nếu là Bồ-tát thật sự  thì ta không lấy chủ nghĩa anh hùng của võ lâm, mà phải lấy chủ  nghĩa anh hùng của lòng từ bi để đối đãi. Như thế sẽ không có thù  và thân. Lúc đó khổ đau dù có mặt đi nữa thì cũng giống như viên  sỏi thả xuống mặt hồ tĩnh lặng. Dĩ nhiên viên sỏi sẽ làm cho nước  loang ra nhưng chỉ một lúc sau sẽ tĩnh lặng lại như trước. Nếu ta  quán được như thế thì dù kẻ thù có còn đó, khổ đau cũng sẽ nhanh  chóng được tan biến trong ta.

Đừng chụp lại những hình ảnh khổ đau trong quá khứ, càng chụp lại thì những hình ảnh  đó càng  loang lổ nhiều thêm trên bề mặt tâm thức. Như  vậy  là ta đang biến khổ đau  thành  cái gì đó  thường  còn bất biến. Ta  càng ghi nhận hình ảnh khổ đau lâu dài bao nhiêu thì sai lầm càng chồng  chất lên bấy nhiêu. Do vậy, cần phải loại  trừ chúng  ra khỏi tâm thức  của mình càng nhanh càng tốt.

Ba kỹ năng thực tập tâm  lý đó, đức  Phật dạy  rất nhiều trong kinh với nhiều ẩn dụ  minh họa,  người  biết quý trọng hạnh phúc nên  áp dụng.

Cuộc khủng  bố bằng  máy  bay  làm sụp hai tòa nhà  thương mại  của Hoa Kỳ, không  chỉ nhắm đến nước  này, mà còn đối với những  liên minh của Mỹ, trong đó Anh là đối  tác  quan trọng. Đứng từ phía những  người  dân vô tội,  ta cảm thấy  rất căm phẫn những kẻ đã tạo ra khủng bố và bạo động,  chỉ vì hận thù cá nhân và cuồng tín tôn giáo. Nếu ta cất cùng  tiếng  nói của sự hận thù thì chắc chắn những  bế tắc  đó sẽ không  được  tháo gỡ.

Trong khi lên  án những  người cuồng tín và sai lầm, ta vẫn lên án sự khủng bố đã gieo rắc nỗi khổ niềm  đau.  Mục đích  của việc  lên án là để  tìm kiếm giải pháp từ chất  liệu  của lòng  từ bi, chứ không  phải của thù hận. Chỉ có chất  liệu  từ bi mới  có thể mang lại cho thế giới sự bình ổn thật  sự. Mang lại công lý bằng bạo lực mạnh  để  chiến  thắng  bạo lực yếu, hẳn không  phải là giải pháp lâu dài.

Ta có thể  lấy oai quyền của người  lớn ra  lệnh cho con em  đang cười giỡn to tiếng,  làm mất giấc ngủ phải ngưng ồn ào  ngay lập tức. Dĩ nhiên con em ta sẽ sợ và không dám làm ồn. Trong sự ngừng và không dám làm ồn đó, nó vẫn ấm ức, khó  chịu bên  trong. Nếu bị hà hiếp quá đáng, nỗi bực dọc đó  sẽ  được nuôi lớn. Đến lúc trưởng thành, được luật pháp bảo vệ, tự  do cá nhân được tôn trọng, nó có thể kháng cự hoặc nổi loạn theo  cách thức này hoặc  là cách thức nọ. Sự nổi  loạn đó được thể  hiện đối lập giữa hai ý thức hệ của người lớn tuổi và người trẻ.

Vì thế, phải thấy được  nỗi khổ của những  nạn nhân cũng như của những kẻ đã tạo  ra nỗi khổ đau  để tìm cách tháo gỡ. Sống trong vô  minh, cuồng tín và bế tắc, không có lối  thoát, con người có thể  gieo rắc những ngang trái trong cuộc  đời. Phải thương họ nhiều hơn, để họ  thấy  vẫn còn cái phao  rộng lượng, sẵn lòng giúp họ quay đầu  về sự sống tốt đẹp.  Chỉ có cái nhìn đúng đắn và rộng lượng  mới giúp những  kẻ khổ  đau và tội lỗi tìm thấy được  miền  đất hứa, giúp họ làm mới lại cuộc đời.

Các vị Bồ-tát luôn  phát  nguyện vào địa ngục, cứu vớt chúng sanh.  Địa ngục hay  thiết thực hơn  là tù  ngục, là nơi hội tụ của những kẻ đầu trâu  mặt  ngựa,  những  người đâm thuê chém mướn, hay  cuồng tín độc đoán. Nếu không  có những bậc Bồ- tát phát  tâm  hoá  độ thì có lẽ cuộc đời của họ sẽ tàn  tệ hơn nữa. Những người này thường nghĩ cuộc  đời của họ  đã hết rồi, nên họ  từ bất cần, bất chấp,  dẫn đến sự gia  tăng hành vi gây khổ đau nhiều hơn  cho mình và cuộc đời.

Phải  có những người mang tâm niệm  Bồ-tát gần gũi, chia sẻ và hiểu được tại sao họ bạo động, khủng bố để thiết  lập nhịp cầu tình thương, lần lần chuyển hóa rốt ráo. Cầm tù kẻ phạm pháp không phải là giải pháp dứt điểm.  Nếu nhà tù được quan niệm như sự trừng phạt là  sai  lầm lớn. Sự trừng phạt  làm cho các  tù nhân  không  dám làm điều xấu ác, chứ không xóa được tâm  xấu.  Nhà  tù nên được quan  niệm như công cụ hay  phương tiện  tốt  để giáo  dục tội phạm. Phương pháp giáo dục  tội phạm phải được  nuôi  dưỡng  bằng  chất liệu từ bi và tuệ  giác, thì sự chuyển hóa mới thành công viên mãn.

Các vị Bồ-tát dấn thân,  gần gũi những kẻ xấu  thì mới tháo gỡ được  nỗi khổ niềm  đau  một cách trọn  vẹn và dứt điểm.  Nếu trong quá khứ ta đã lỡ gây  ra khổ đau  cho  người khác thì nên học hạnh sám hối  và không  tái phạm trong tương lai

Nếu ta đã từng là nạn nhân thì nên tâm nguyện rằng: “Tôi xin  tha thứ cho bạn và những ai đã tạo ra nỗi khổ niềm đau cho tôi và  người thân để gút mắc, oan trái được tháo gỡ ngay trong kiếp này”.  Nếu người Phật tử hiểu được đạo lý, tình thương của đức Phật mà  không phát nguyện như thế, đến khi sanh ra ở kiếp sau, nếu không  còn là Phật tử nữa thì chưa chắc oan trái đó được tháo gỡ.

Hãy tận dụng  những  cơ hội  để tháo gỡ oan  trái một cách khôn ngoan.  Được vậy, những biến cố, khổ đau dù  có xảy  ra cũng không  làm ta lao  đao  thêm  lần nữa. Lúc đó, ta sẽ  là một chiến  sĩ khải hoàn,  không  có đối thủ, không có kẻ thắng người bại, mà chỉ có sự an lạc, hạnh phúc.