Je Tsongkhapa
Thích Nhật Từ dịch
Ngài Tsongkhapa (1357–1419) là bậc đạo sư quan trọng của Phật giáo Tây Tạng. Sau khi tiếp nhận giáo pháp từ các bậc thầy thuộc các trường phái Phật giáo Tây Tạng có trước, ngài Tsongkhapa thành lập phái Geluk, còn gọi là Geluk-pa, hay phái Mũ Vàng.
Đến thế kỷ XVI, phái này phát triển mạnh nhất tại Tây Tạng nhờ truyền thống tái sinh của các Dalai Lama, mà nổi tiếng nhất vào giai đoạn đó là là đức Dalai Lama thứ 5, ngài Sonam Gyatso (1577). Theo ngài Tsongkhapa, ba tinh yếu của đạo giải thoát (Three Principal Aspects of the Path) bao gồm tâm yểm ly, tâm bồ-đề và nhận thức tính không. Trên nền tảng ba tinh yếu này, Phật giáo Kim Cương thừa (vajrayāna Buddhism) được hình thành và phát triển.
Từ ngày 1-3/7/2013, pháp hội đặc biệt dành cho người Việt Nam được đức Dalai Lama 14 thuyết giảng tại Tu viện Namgyal, Dharamsala, Ấn Độ. Tác phẩm này được đức Dalai Lama chọn làm bản văn thuyết giảng cho trọn khóa tu 3 ngày. Dựa vào Nghi quỹ chính của Pháp hội do Sư cô Nhật Hạnh dịch từ tiếng Tây Tạng, tôi dịch lại tác phẩm này từ bản tiếng Anh.
KÍNH LỄ VÀ KHÍCH LỆ
1. Con đem hết khả năng giảng thích
Nghĩa tinh hoa pháp Phật nhiệm mầu
Là đường Bồ-tát khen cầu
Thẳng vào giải thoát, tiêu dao tháng ngày.
2. Ai không đắm phước duyên thế tục
Luôn chuyên tâm nỗ lực thực hành
Tin vào chánh đạo Phật ban
Sâu mầu phúc lớn, tịnh lòng lắng nghe!
I. TÂM YỂM LY
3. Hành buông xả là phương tiện tốt
Không tham cầu quả phước luân hồi
Hữu-ái trói buộc bao người
Dứt trừ xiềng xích, quyết đòi xuất ly.
4. Đời ngắn ngủi, thân người khó được
Phải tu hành giải thoát dục tâm
Nghiệp quả thực, lụy hồng trần
Hết lòng quán tưởng, ái tham xa lìa.
5. Không mơ tưởng phước trong sinh tử
Quán chiếu tâm tỏ rõ từng giây
Ngày đêm cầu giải thoát thôi
Xuất ly tâm ấy, rạng ngời khởi sinh.
II. TÂM BỒ-ĐỀ
6. Tâm giác ngộ nếu không phát khởi
Tâm yểm ly khó trở thành duyên
Để cầu giải thoát vô biên
Bồ-đề tâm ấy, phải chuyên thực hành.
7. Bị chìm đắm bốn dòng thác dốc
Bị nghiệp xiềng, trói chặt khó buông
Kẹt vào lưới sắt ngã nhân
Vô minh mờ mịt, phủ trùm khắp nơi.
8. Dòng sinh tử nối đuôi, không dứt
Ba khổ kia bám buộc hành hình.
Chúng sinh như mẹ ruột mình
Khởi lòng thương xót, phát tâm bồ-đề.
III. TÁNH KHÔNG
9. Nếu chỉ có yểm ly, tâm giác
Mà không tu trí tuệ sáng soi
Thì không thể thoát luân hồi
Phải thông duyên khởi, rạng ngời lý chân.
10. Thấy các pháp thế gian, xuất thế
Nhân duyên sanh nên quả chính chân
Cảnh chấp kia vốn rỗng không
Được vào đạo Giác, hân hoan vô cùng.
11. “Tính duyên khởi” là chân lý thực
Ngộ “tánh không”, chẳng mắc kẹt đâu
Nếu không hiểu được lý sâu
Thì chưa hiểu được đạo mầu Như Lai.
12. Lúc ấy, chẳng luân phiên thay thế
Thấy duyên sinh chân thực xưa nay
Diệt trừ chấp thủ trong ngoài
Đến đây, quán chiếu đến hồi thành công.
13. Nhờ “duyên khởi”, hữu-biên dứt sạch
Nhờ “tánh không” chặt đứt vô-biên
Tánh không hiện rõ quả nhân
Không còn kiến chấp đoạn, thường ngay đây.
14. Khi hiểu rõ ba điều trọng điểm
Là tuy hoa đạo giác như trên
Độc cư, tinh tấn ngày đêm
Nguyện tâm thành tựu, đạo vàng sáng soi.
***