Chương 1: Tìm kiếm hạnh phúc

NGHĨ ĐẾN NGƯỜI NGHÈO KHÓ

Kinh Bồ Đề Vương Tử là bài kinh 85, thuộc kinh Trung bộ, giới thiệu các quan điểm và cách thức mưu cầu hạnh phúc. Thông qua bài kinh này, có hai quan điểm nổi bật về bản chất hạnh phúc. Một bên đại diện cho Bà la môn giáo, bên kia đại diện tông chỉ và ý tưởng tâm linh của đạo Phật.

Theo Bà la môn giáo, con người phải trải qua quá trình khổ hạnh ép xác mới đến được đỉnh cuối cùng của hạnh phúc thật sự. Trong khi đó, đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.

Bài kinh bắt đầu bằng sự kiện liên hệ đến vị vương tử Bodhi, nghĩa gốc là Giác Ngộ. Vương tử Bodhi là thái tử của một tiểu bang phát triển lúc bấy giờ, đồng thời cũng là một Phật tử thuần thành. Mặc dù là Phật tử thuần thành, nhưng các yếu tố thuộc phong tục tập quán tín ngưỡng của Bà la môn giáo, trước khi đến với đạo Phật, vẫn còn in đậm trong tâm thức của ông. Khi vừa xây xong tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, ông đặt tên cho nó là Kokanada, sau đó chuẩn bị buổi lễ khánh thành. Ông thỉnh mời đức Thế Tôn và tăng chúng đến động thổ khai đất, vì nghĩ rằng phước báu, hạnh phúc, bình an, thịnh vượng sẽ có mặt một cách lâu dài trong tòa lâu đài này.

Ông truyền lệnh cho gia nhân đến ngỏ lời thỉnh mời đức Phật và tăng chúng đến để chứng minh trong lễ cúng dường trai tăng khánh thành lâu đài. Đức Phật đã im lặng nhận lời. Ba lần thỉnh mời được hồi đáp bằng ba lần nhận lời không lên tiếng.

Trước ngày cúng dường trai tăng, vương tử Bodhi chuẩn bị mọi thứ trang nghiêm hoành tráng. Ông ra lệnh mua các loại vải vóc màu trắng sang trọng nhất trải dài từ thềm thang đến ngưỡng cửa bước vào tòa lâu đài. Trang trí nội thất cũng lấy màu trắng làm nền tảng.

Sáng hôm đó, sau khi mọi thức ăn thượng vị được chuẩn bị xong, ông chu đáo sai gia nhân đến thỉnh đức Phật. Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát cùng tăng chúng từng bước thảnh thơi đi vào thành và dừng lại ở tòa lâu đài của vương tử Bo- dhi. Để thể hiện lòng tôn kính của mình, vương tử Bodhi đã đứng chờ ngoài cửa từ sáng sớm. Mặc dù biết đức Phật chỉ có thể đến vào giờ thọ trai, nhưng vì lòng tôn kính, cho nên ông và gia quyến đứng đợi từ sáng mà không hề cảm thấy bất kỳ sự mỏi mệt hay khó nhọc nào.

Khi đức Thế Tôn vừa đến, ông cùng gia quyến đảnh lễ, vấn an sức khỏe ngài rồi đích thân dẫn đường mời đức Thế Tôn và tăng chúng đi tham quan. Sau khi đi hết phần sân vườn, lên đến thềm cầu thang, đức Thế Tôn đã dừng chân tại chỗ khá lâu, ngài không đi nữa.

Bấy giờ vương tử Bodhi mới trình thưa đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, gia đình chúng con biết ngài bận nhiều Phật sự, nhưng vì thương chúng con cho nên ngài đã quá bước qua đây, xin ngài hãy đi lên trên tấm vải lụa trắng này để gia đình chúng con được phước báu, hạnh phúc, bình an lâu dài”. Thỉnh mời ba lần, đức Thế Tôn vẫn lặng thinh không trả lời.

Sự im lặng trong tình huống này khác hẳn với sự im lặng khi được thỉnh mời đến lâu đài. Thông thường, trong ngữ cảnh văn hóa Phật giáo, im lặng là đồng ý. Khi được trình thưa một vấn đề gì đó, nếu chúng ta không có ý tưởng nào khác thì biểu tỏ sự đồng tình bằng im lặng. Tất cả các ngữ quyết trong sinh hoạt tăng đoàn, trước khi đưa ra một quyết định hay một thông bạch Phật sự nào đó, cũng được biểu quyết ba lần bằng sự đồng thuận im lặng.

Nhưng trong tình huống này, sự im lặng của đức Phật lại có ý nghĩa hoàn toàn khác. Ngài hướng ánh mắt từ ái sang thị giả Anan. Anan là người gần gũi đức Phật gần hai mươi lăm năm, nên hiểu rất rõ những gì đức Phật muốn thể hiện.

Anan nói với vương tử Bodhi: “Hãy cuộn tấm vải này lại, đừng hoang phí nó vì đức Thế Tôn đang nghĩ đến vô số người nghèo khó không có cơm ăn áo mặc”.

Nghe lời Anan dạy, vương tử Bodhi cho gia nhân cuộn những tấm vải lại và hạ hết tất cả những món trang hoàng lộng lẫy mà theo đức Thế Tôn là không cần thiết cho buổi lễ cúng dường trai tăng. Sau đó đức Thế Tôn mới từng bước trên các thềm thang, đi vào phía ngôi nhà và ngồi vào chỗ đã được sắp đặt sẵn.

LÀM PHƯỚC BÁU VỚI TÂM RỘNG LƯỢNG

Tình tiết của câu chuyện mở ra một quan điểm về phước báu. Không riêng những người theo đạo Phật, mà tất cả những người theo tôn giáo Bà la môn và các tôn giáo khác của Ấn Độ lúc bấy giờ, đều có cái nhìn và cách ứng xử tương tự rằng muốn được hạnh phúc bình an thì phải thỉnh mời các nhà tâm linh tôn giáo đến. Để bày tỏ lòng tôn kính nhất của mình, vương tử Bodhi và gia quyến đứng từ sáng đến trưa chờ đón đức Phật. Đứng rất lâu dưới cái nắng nóng của thời tiết vào thời điểm sau mùa an cư kiết hạ, mồ hôi nhễ nhại, nếu không vì lòng tôn kính thì không thể nào thực hiện được. Ông chuẩn bị khá chu đáo, vì nghĩ rằng việc cúng dường như vậy sẽ mang lại phước báu cho gia đình.

Một lưu ý nhỏ trong phong tục tập quán của Ấn Độ, đó là khi cầu phúc, đặc biệt là cầu tự, muốn sinh con trai để kế ngôi hoặc tiếp nối gia tài sự nghiệp ông bà tổ tiên để lại, người ta phải trang trí toàn màu trắng thì nguyện ước đó sẽ thành tựu. Trong tình huống này, vương tử Bodhi đã làm đúng theo phong tục tập quán.

Câu phát biểu của ngài Anan rất ấn tượng: “Vì Như Lai Thế Tôn nghĩ đến những người nghèo khó”. Thông qua tình tiết nhỏ này, chúng ta có thể hiểu để có được phước báu thì điều quan trọng là dấn thân phục vụ cộng đồng xã hội và tha nhân theo tông chỉ của đức Phật “phụng sự chúng sinh tức là cúng dường chư Phật”. Nếu muốn hưởng những sự sang trọng thì đức Thế Tôn đã không trở thành một hành giả tâm linh mà trở thành một quốc vương giàu có, đầy quyền lực. Những người tu cũng vậy, xả tất cả gia tài sự nghiệp, danh phận của mình trong xã hội để trở thành một người giản đơn, nhận lại những phẩm vật cúng dường của đàn na tín thí.

Đức Phật nói ngài nghĩ đến những người nghèo khó với mong muốn vương tử Bodhi trong những dịp khánh thành này hãy gieo trồng phước báu cho những mảnh đời bất hạnh đang cần đến bàn tay chăm sóc và sự chia sẻ. Còn người tu sĩ thì không cần những loại xa phẩm ấy.

Cúng dường: Đức Thế tôn muốn chia sẻ rằng không cần phải tốn kém những thứ xa xỉ phẩm để tạo ra phước báu. Người Phật tử và tín đồ nói chung, vì muốn có phước báu, đã làm rất nhiều thứ để cúng dường trai tăng mà bản kinh nêu ra là các loại thực phẩm thượng hạng nhất trong vương thành lúc bấy giờ. Trên thực tế, tu sĩ ăn uống rất giản đơn, cúng càng thịnh soạn chừng nào, càng làm hư tu sĩ chừng đó. Thông thường khi cúng dường trai tăng, chúng ta muốn tăng ni tham dự lễ trai tăng hài lòng để mình được phước. Bày biện thịnh soạn, dâng cúng phẩm vật không đúng cách là làm sai hạnh tu tập, hành trì của người xuất gia.

Đức Phật dạy người xuất gia khi ăn không đặt nặng khẩu vị, hưởng thụ, thưởng thức như người tại gia, vì sự đắm nhiễm thông qua lưỡi sẽ làm cho chánh niệm tỉnh thức không còn có mặt trong tâm thức của người hành trì. Ăn uống giản đơn để duy trì sức khỏe tu tập có kết quả, đền đáp tấm lòng và sự cúng kính của bá tánh đàn na. Bày biện thịnh soạn mâm cao cỗ đầy, nhưng phần tiêu thụ chỉ khoảng ba mươi phần trăm, bảy mươi phần trăm còn lại sẽ là một sự dư thừa.

Ngày xưa tại Ấn Độ, cách thức ăn uống liên hệ đến phong tục tập quán và được nâng lên thành nền văn hóa ẩm thực. Đức Phật và chư tăng ăn uống giống như bao người bình thường, tay phải được mật ước dùng để bốc thức ăn, còn tay trái dùng vệ sinh cá nhân. Cái bát vừa với sức chứa của bao tử, đủ nuôi sức khỏe một ngày cho các hành giả, cho nên trong lúc ăn, hành giả không được lựa chọn món ngon ăn trước dẫn đến tình trạng đào, xốc, bới, trộn qua trộn lại mà phải ăn theo thứ tự, món nào cúng sau thì ăn trước, vì nó nằm bên trên. Không được chê ngon dở, vì như thế là đắm nhiễm vào vật thực.

Người Phật tử dâng cúng phẩm vật cho các vị xuất gia cũng nên nhớ tinh thần của đức Phật. Đừng làm thịnh soạn, bởi vì bảy mươi phần trăm còn lại sẽ bị vứt đi một cách hoang phí. Hãy cúng giản đơn như rau, quả, đậu hũ hay nấm kho, vừa đảm bảo sức khỏe mà tiền tốn chẳng bao nhiêu.

Quan niệm muốn có phước báu và hạnh phúc thì phải phát tâm cúng dường. Như vậy mối liên hệ giữa phát tâm cúng dường và phước báu thuộc về tiến trình nhân quả. Phát tâm hay tôn kính là nhân, và quả đạt được là phước báu. Dĩ nhiên, đó là một tiến trình rất tự nhiên. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm cái gì để có ý nghĩa, có giá trị. Nếu không để ý, để tâm, thì dù chúng ta đầu tư khối lượng lớn các phẩm vật cúng dường, nhưng kết quả đạt được chẳng là bao.

Phật tử khi phát tâm cúng cũng phải thiết thực. Nhiều người cúng dường trai tăng bằng những phẩm vật như bàn chải đánh răng, kem đánh răng, tập, viết,… trong ba tháng an cư nếu ai cũng cúng như vậy thì có lẽ dùng mười năm chưa hết. Chúng ta nên cúng những thứ cần cúng, không nên cúng thừa, cũng như cúng trùng lặp, để giá trị cúng của chúng ta mới có chỗ phục vụ.

Nếu học theo tinh thần của bài kinh này thì mỗi lần cúng dường trai tăng, chúng ta sẽ tiết kiệm khá nhiều tiền. Mua thực phẩm thượng vị có thể tốn năm mười triệu, nhưng làm thực phẩm giản đơn chỉ tốn vài chục ngàn. Chùa Giác Ngộ gồm gần ba mươi thành viên, một ngày đi chợ sáng, trưa và chiều chỉ có 150 ngàn không tính gạo thóc và các gia vị. Quân bình, mỗi khẩu phần ăn chỉ có 5.000 đồng cho sáng, trưa và chiều. Nhiều chùa khác còn tệ hơn như thế. Nhưng tăng ni Phật tử vẫn thấy rõ rằng người tu với chế độ ăn uống khiêm tốn mà vẫn khỏe mạnh bình thường.

Ăn quá nhiều thực phẩm được bào chế thông qua các công nghệ hóa chất thì chắc chắn bệnh tật sẽ gia tăng. Cúng dường như thế chưa chắc được phước. Do đó, chúng ta phải biết chút ít về y học, nhất là những dược chất trong các thực phẩm mà chúng ta cúng. Muốn vậy thì phải gặp bác sĩ để được tư vấn nấu món dễ tiêu thụ, hỗ trợ việc hành trì có kết quả.

Như vậy việc cúng dường cầu phước báu chính là một trong những cửa ngõ dẫn đến hạnh phúc, và đó là điều không thể phủ định, nhưng phải biết cách thì kết quả đạt được mới cao.

Nhiều Phật tử tôn trọng tăng ni đã dâng hết những món ngon vật lạ cho nhà chùa, trong khi cha mẹ ruột của mình ở nhà không được cúng kính gì cả. Làm như thế là sai lầm. Đức Phật nhắn nhủ qua lời nói của Anan: “Như Lai Thế Tôn nghĩ đến những người nghèo khó” có nghĩa rằng muốn có phước báu và hạnh phúc lớn thì trong những dịp khai trương thế này, hãy làm những việc có ý nghĩa và giá trị thiết thực.

Phóng sinh: Nhiều Phật tử có khuynh hướng mua chim cá để thả và mong cầu phước báu, tuổi thọ, bình an, phú quý về cho gia đình. Việc làm đó cũng có giá trị nhưng không thiết thực, việc phóng sinh không nên đặt mà hãy làm một cách tự nhiên. Chẳng hạn khi chúng ta đi và phát hiện đâu đó có sự giam cầm chim lồng cá chậu, cảm nhận nỗi đau mất tự do của các chủng loại này, chúng ta phát lòng từ bi và gieo hạt giống, mở cửa cho chúng trở về trời xanh, trở về biển cả, sông ngòi, đó là việc làm ý nghĩa. Còn đặt hàng chim cá để phóng sinh với mưu cầu hạnh phúc cho bản thân lại không có giá trị. Việc đặt hàng khiến người ta phải đi giăng bẫy bắt, như vậy chúng ta vô tình khuyến khích người khác làm những việc không hay. Cho nên, việc phóng sinh phải tùy duyên, gặp là làm liền chứ không cần chờ đợi.

Lại có nhiều Phật tử khác vào buổi sáng, mang lồng chim nhỏ xíu chứa đựng cả trăm con đè đầu cưỡi cổ nhau. Vì niềm tin tín ngưỡng rằng phải có một bài kinh tụng niệm thì phước báu mới gia tăng, nên họ đợi đến trưa, sau thời kinh cúng ngọ, mới mở lồng ra, số chim trong lồng khi đó đã chết vài chục con. Vì vậy, hiểu tinh thần của việc phóng sinh, chúng ta phải làm ngay tức khắc.

Không cần thỉnh mời quý thầy tụng kinh bái sám trong lễ phóng sinh, chỉ cần mở tâm và lòng từ bi thật lớn, tâm niệm rằng “chúng tôi ý thức rất rõ tình trạng chim lồng cá chậu rất khổ đau và tự do là hạnh phúc lớn nhất. Mong quý vị sau động tác mở cửa của tôi hãy bay về trời xanh, trở về sông ngòi sống hạnh phúc và không còn bị tật ách rơi vào tình trạng thế này lần thứ hai. Mong sao hết kiếp này quý vị trở lại làm người có phước báu để làm những việc đáng làm với tấm lòng chí thành và tha thiết”. Tâm niệm trong lúc phóng sinh như thế, phước báu thật sự gia tăng, mặc dù chúng ta không màng đến. Còn tình huống trong kinh, đức Phật không dạy phóng sinh mà ngài dạy hãy nghĩ đến những người nghèo khó.

Năm 1994, khi có mặt tại Ấn Độ, chúng tôi đã đi tham quan bốn Phật tích được vài lần. Đến năm 1998, trở lại thì thấy phong tục phóng sinh bắt đầu có mặt, bởi đó là nhu cầu của nhiều du khách Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan với niềm hy vọng rằng phóng sinh tại đây thì ân đức của đức Phật với bốn thánh tích lịch sử sẽ tạo ra phước báu lớn hơn. Cho nên, người Ấn Độ nghèo khó vốn rất thương yêu các loài động vật và gia súc, không muốn giam nhốt chúng, nhưng vì chén cơm manh áo mà tạo ra phong tục mới chẳng tốt đẹp gì. Đó là bắt giam, giăng bẫy, lưới cá để đáp ứng du khách Phật tử ở những nước Châu Á. Phong tục đó hoàn toàn trái với tinh thần nhà Phật.

Bố thí: Nếu trong thời đại của đức Phật, địa điểm bốn Phật tích là nơi trù phú, là trung tâm văn hóa và phát triển kinh tế thì trong thời hiện đại nó là nơi nghèo mạt nhất của đất nước Ấn Độ. Các phái đoàn hành hương đến đây đều được hướng dẫn phải đổi tiền lẻ trước. Tuy nhiên, dù có đổi mấy trăm triệu ra tiền bạc cắc, chúng ta vẫn không thể phát hết, và đoàn sẽ không thể cất bước đi được khi người dân nghèo khó báo tin cho nhau lũ lượt kéo đến rất đông. Chính vì thế, những người hướng dẫn du lịch tâm linh có kinh nghiệm sẽ khuyên không nên đổi tiền lẻ.

Để thể hiện sự giúp đỡ một cách có hiệu quả và thiết thực, thay vì ban phát một cách rời rạc và thiếu tổ chức, dẫn tới tình trạng nhốn nháo, giành giựt, thậm chí giẫm đạp lẫn nhau thì chúng ta chỉ cần liên hệ với những bô lão hoặc trưởng làng, tập hợp và giao họ phần ủng hộ này. Như vậy sẽ đảm bảo trật tự và ai cũng nhận một cách đồng đều và công bằng nhất.

Vào những ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư, rằm tháng bảy, rằm tháng mười các ngôi chùa cũng thường xảy ra tình trạng ồn ào náo nhiệt. Bá tánh đàn na giành giựt nhau đồ cúng, vì nghĩ rằng những phẩm vật đó mang lại phước báu. Điều đó làm mất đi ý nghĩa xã hội đạo đức, cho nên chúng ta chỉ cúng tượng trưng và tìm những gia đình nghèo khó để giúp đỡ một cách tập thể, có tổ chức thì kết quả đạt được sẽ cao. Trong phần giúp đỡ này, chúng ta nên chia sẻ pháp thoại, truyền đạt điều đức Phật đã dạy trong kinh để giảm bớt nỗi đau và sức ép căng thẳng mà cái nghèo mang lại cho họ. Được như thế mới đúng với lời đức Phật ám chỉ trong bài kinh này, khi được vương tử Bodhi thỉnh mời cúng dường trai tăng, với những phẩm vật vô cùng sang trọng.

Từ thiện: Chẳng hạn, việc cứu tế các nạn nhân gặp thiên tai lũ lụt tại miền Trung hàng năm. Gia súc bị chết, lúa nảy mầm, gạo không có để ăn, bệnh dịch tả, thổ tả lan truyền khắp nơi như một hệ quả kéo theo của lũ lụt. Mọi công ăn việc làm bị đình chỉ hoàn toàn. Nhiều đoàn từ thiện mua rất nhiều loại phẩm vật có không gian to như mì gói, chi phí xe vận chuyển khá nhiều. Nếu chúng ta mang bao thư tiền, vừa nhẹ nhàng vừa tiết kiệm chi phí vận chuyển, để có thể cứu giúp thêm một số gia đình. Trước khi phát tâm gửi đến những tặng phẩm, chúng ta cũng cần phải diễn đạt ý nghĩa và giá trị xã hội một cách súc tích, cô đọng để cùng chia sẻ nỗi khổ niềm đau, giúp họ vượt qua khó khăn của chính bản thân mình.

Mấy năm trước khi thiên tai xuất hiện tại Ấn Độ, cơn động đất đã làm cho mấy chục ngàn người tử vong và hàng ngàn ngôi nhà bị sụp lở. Một phái đoàn Phật giáo Úc châu đã đến nhờ chúng tôi hướng dẫn đoàn. Điều đầu tiên chúng tôi đề nghị là chỉ nên mua nhà, dù cho các nạn nhân ở tạm trong giai đoạn chưa có sự trợ cấp chính thức từ chính phủ. Sau đó là các thùng nước thật to, vì trong động đất nước bị ô nhiễm, người ta đã được di dời đến khu đất trống an toàn; kế đến là nồi niêu xoong chảo và những thực phẩm khô, kèm theo phong bì. Phải hiểu rõ dạng thiên tai nào cần những loại sơ cấp cứu nào để đáp ứng nhu cầu bức thiết, như vậy chúng ta mới xoa dịu được nỗi đau cho quần chúng. Nếu là phái đoàn đến sau, thì việc mua những thứ này trở nên dư thừa. Cho nên, phải dựa vào thời điểm và bản chất của từng sự việc mà quyết định phương thức gì để giá trị đóng góp của chúng ta sẽ không trở nên vô ích.

Ban từ thiện và ấn tống Đạo Phật Ngày Nay do chúng tôi chủ xướng trong mấy năm qua, cũng có chính sách rõ ràng cho việc ấn tống và giúp đỡ. Không phải chùa nào có nhu cầu gởi thư đến là được đáp ứng. Chúng tôi chỉ gửi chùa nào có nhu cầu tụng niệm, còn chùa có nhu cầu nhận để làm tặng phẩm cho bá tánh Phật tử vào những dịp lễ lớn thì không. Bởi vì làm như thế bá tánh sẽ mang quyển kinh đó về đặt bàn thờ cầu phước lộc, thay vì phải đọc tụng và hành trì.

HẠNH PHÚC VÀ TRUNG ĐẠO

Sau khi nhận phẩm vật cúng dường, vương tử Bodhi đã đặt câu hỏi liên hệ đến bản chất của hạnh phúc: “Bạch đức Thế Tôn, theo con hạnh phúc không có mặt do chính nó, hạnh phúc có mặt là do có khổ đau”.

Triết lý này bao gồm hai vế. Vế đầu phản ánh học thức duyên khởi rằng mọi sự vật hiện tượng tồn tại tương duyên, tương thuộc, ảnh hưởng tác động chi phối lẫn nhau. “Hạnh phúc không có mặt trong chính nó”, nó phải được hỗ trợ, tác động với duyên, môi trường, điều kiện thì mới mang lại niềm vui thật sự.

Vế thứ hai, vương tử khẳng định “hạnh phúc có mặt là do có khổ đau”. Như Lai Thế Tôn đã trả lời: “Ta đã từng suy nghĩ như thế và sau thời gian tu tập trung đạo, ta đã nhanh chóng thừa nhận và thấy rõ rằng đó là một quan điểm sai lầm”.

Vế thứ hai tương tự câu “sau cơn mưa trời lại sáng” mang tính chất khích lệ rằng khổ đau phải trải qua là điều cần thiết và hạnh phúc nào cũng cần phải trả giá cho nên hãy nỗ lực đi tới phía trước, đừng bỏ cuộc giữa chừng. Nhờ lời khích lệ mà người ta vượt qua được khó khăn, nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng phải trải qua như thế thì mới thực sự được hạnh phúc.

Điều đức Phật muốn dạy, đó là có những cách thức nếu thực hiện đúng phương pháp thì không cần phải trải qua bất cứ khổ đau nào cũng dẫn đến thành công. Vấn đề ở chỗ nhận định và thể hiện có đúng đắn hay không. Nhiều người nỗ lực năm lần bảy lượt, thất bại lần này, nỗ lực lần khác, ấy thế mà đâu cũng hoàn đó, không có bất kỳ một tiến bộ và thay đổi nào, vì không nắm vững phương pháp luận.

Cách đây vài hôm, có hai nhà doanh nghiệp trẻ đến gặp chúng tôi tâm sự họ vừa bị phá sản vì chứng khoán. Họ đến yêu cầu nhà chùa cho họ một cái phép hay lá bùa để về gỡ gạc những gì đã thua lỗ. Chúng tôi suy nghĩ một vài phút rồi mở tủ lấy hai tượng Phật, một tượng Quan Âm và một tượng Phật Di Lặc. Chúng tôi tặng tượng Quan Âm cho anh lớn, tặng tượng Di Lặc cho anh nhỏ và nói: “Đây là bùa hộ mạng của hai anh, hãy về tôn vinh, thờ phượng các ngài và phát nguyện mỗi ngày rằng sẽ làm việc chân chính, đừng dấn thân vào thị trường chứng khoán thì Phật mới gia hộ”. Dĩ nhiên hai anh hơi thất vọng khi được chúng tôi khuyên từ bỏ chứng khoán. Con đường hạnh phúc phải tạo dựng bằng phương pháp luận. Đúng phương pháp, đúng phước báu thì mới có công đức chứ không chỉ ngồi cầu nguyện Phật gia hộ, có bùa có phép mà xong.

Câu chuyện trong kinh, đức Phật không muốn vương tử Bodhi thất vọng vì phong tục tập quán của dân gian, quan niệm rằng muốn có phước báu thì phải thỉnh mời tăng chúng đến ban phước. Ngài ám chỉ một cách khéo léo rằng ngoài những công việc cúng kính để có phước báu, cần phải thể hiện bằng những công việc cụ thể thì mới thành công.

Trở lại câu nói của Bodhi “hạnh phúc có mặt là do có khổ”. Đức Thế Tôn đã từng bị câu nói này ám ảnh suốt sáu năm trời. Ngài đã từng trở thành nhà khổ hạnh nổi tiếng nhất lúc bấy giờ. Kinh mô tả mỗi ngày ngài ăn vỏn vẹn bảy hạt mè. Dĩ nhiên mô tả đó chỉ mang tính biểu tượng. Mè có dương tính cao, có thể tạo được sự cường tráng cho cơ thể, điều chỉnh lại những chức năng thoái hóa xương, bệnh đau nhức xương khớp có thể được trị liệu phần nào nhờ chế độ ăn này. Sau suốt sáu năm trời khổ hạnh, có lẽ nhờ vậy mà đức Phật vẫn đảm bảo được tuổi thọ đến tuổi tám mươi.

Sở dĩ đức Phật đã chọn con đường khổ hạnh ép xác là vì khi học đạo với các nhà tâm linh Bà la môn giáo quan niệm phải đì đọt các giác quan, làm cho chúng không còn mơ ước hưởng thụ các khoái lạc nữa, lúc đó dòng cảm thụ chết hoàn toàn thì hạnh phúc mới bắt đầu có mặt. Lầm tưởng như thế nên rất nhiều người đã thực tập theo và cuối cùng kết quả là bệnh tật, khổ đau và chết yểu diễn ra. Phần lớn các nhà khổ hạnh của Bà la môn giáo chết ở tuổi bốn mươi cho đến năm mươi.

Đức Phật là người duy nhất sống đến tám mươi tuổi nhờ ngài nhanh chóng thay đổi đi trên con đường trung đạo, lấy con đường trung đạo làm nền tảng cho việc thăng bằng cảm xúc, thăng bằng đời sống, thăng bằng vật thực. Đức Phật nói, từ khi tìm ra con đường trung đạo, ngài mới thực sự nếm được mùi hạnh phúc của giác ngộ. Khổ hạnh ép xác không đưa ngài tới đâu dù trong thời gian ngắn, ngài đã chứng được quả vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Vô sở hữu xứ” là tầm nhìn quán chiếu rằng không có gì trên cuộc đời là tự có. Ở phương diện này hay phương diện khác, khổ đau có mặt do chúng ta đẳng thức hóa nó là chính mình. Cách quán tưởng đó là một loại thuốc gây mê trị liệu trong khoảng cách thời gian nhất định chứ không thể có giá trị trị liệu lâu dài, vì sau khi xuất thiền định, chúng ta vẫn đối diện với thực tế khổ đau khác. Khổ đau vẫn hoàn khổ đau.

Còn “phi tưởng phi phi tưởng xứ” là trạng thái thiền định không để cho dòng tưởng tượng và ý niệm khống chế. Khổ đau bám vào dòng cảm xúc bị vô hiệu hóa. Dĩ nhiên cách thức này cũng là một sự trị liệu nửa vời, nó có giá trị hỗ trợ nhất định chứ không thể là một giải pháp cuối cùng.

Từ đó đức Phật thấy rõ sự khổ hạnh ép xác không đưa ngài tới đâu. Ngài tìm đến bờ sông, tắm lấy lại sức khỏe và ngồi thiền định với quyết tâm cao độ “nếu không chứng đắc được đạo quả bồ đề quyết sẽ không rời khỏi nơi này”. Kết quả sau bốn mươi chín ngày thực tập đúng phương pháp với con đường trung đạo, ngài đã đạt được sự giác ngộ lớn nhất.

Thực tập thiền

Đức Phật đã phân tích với Bodhi rằng “không cần phải nếm mùi khổ đau mới có được hạnh phúc mà chỉ cần thực hiện đúng phương pháp”. Ngài nêu ra con đường thiền quán. Thiền khác yoga. Trong khi yoga đặt nặng vấn đề sức khỏe của thân thể vật lý, giúp cơ thể cường tráng để có một tinh thần minh mẫn thì thiền huấn luyện tâm thức để phóng thích và loại trừ những ức chế tâm lý, những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời. Như vậy trọng tâm của thiền là sự buông xả để không đồng hóa nỗi đau với mình, không đồng hóa nghịch cảnh với nhiều chướng duyên và xem mình là một nạn nhân. Nhờ thực tập thiền quán với hơi thở nụ cười, thong dong, tự tại, tùy duyên, mà hành giả đạt được trạng thái vượt lên trên thuận và nghịch. Đó chính là tiến trình giúp hành giả có được hạnh phúc cao.

Thứ hai, sau khi thực tập thiền quán, hành giả bắt đầu có được trạng thái hỷ lạc của sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Trạng thái hỷ lạc đó không phải là phản ứng giác quan. Ai đạt được trạng thái này mới có thể cảm nhận được bản chất thật của nó. Nó không phải là sự rung động của giác quan mà là sự tĩnh tại nhẹ nhàng sâu lắng mà trong kinh thường ví như trong mùa hè nóng nực, oi bức bỗng dưng được ngâm mình dưới dòng suối mát trong. Trạng thái hỷ lạc cũng tương tự như vậy, và còn sâu lắng hơn, vì nó không mang tính điều kiện mà là kết quả của việc chuyển hóa tâm thức khi lòng tham, lòng sân, lòng si đã được lột dỡ. Hành giả sẽ có được sự chứng đắc nhẹ nhàng thư thái của quả tâm, đây mới chính là hạnh phúc đích thực.

Thứ ba, nếu muốn có hạnh phúc sâu sắc hơn, và thách đố với tính thời gian vô thường hơn, thì hãy chọn con đường xuất gia để vượt qua các khoái lạc của giác quan, đặc biệt là tính dục. Bởi vì khoái lạc giác quan là phản ứng hóa chất diễn ra trên não trạng mang đến cho chúng ta những đê mê với tính lệ thuộc. Chúng ta càng chạy theo sự thỏa mãn đó, càng biến mình trở thành nô lệ. Phàm cái gì khiến chúng ta trở thành nô lệ và lệ thuộc thì không thể gọi đó là hạnh phúc đích thực.

Cho nên ở mức độ sâu và cao thì hạnh phúc đối với người xuất gia chính là việc giải phóng nỗi ám ảnh và những ức chế tâm lý về tính dục. Người làm chủ được mình và nâng năng lực tính dục trở thành năng lực của lòng từ bi phục vụ tha nhân thì người đó được hạnh phúc lớn hơn. Còn đối với người tại gia, thực tập thiền quán ở mức độ ban đầu của người xuất gia là đã có thể hạnh phúc sâu lắng hơn những hạnh phúc bình thường.

THỜI GIAN ĐẠT HẠNH PHÚC

Sau khi nghe đức Thế Tôn trình bày, vương tử Bodhi đã hỏi: “Bạch đức Thế Tôn, phải cần thời gian tối thiểu bao lâu thì mới có thể đạt hạnh phúc như ngài vừa trình bày?”.

Đức Phật không trả lời, ngài đưa ra một ví dụ về nghề luyện voi. Ngài hỏi vương tử Bodhi: “Một người học cưỡi voi, luyện voi, nếu thiếu niềm tin, có quá nhiều bệnh tật, gian trá, biếng nhác và đần độn thì có thể thành công hay không?” Vương tử Bodhi trả lời bằng kinh nghiệm của mình rằng “chỉ cần vấp phải một trong năm điều vừa nêu thì việc luyện voi và cưỡi voi đã không thành công, huống hồ có đủ cả năm”.

Thời xưa, các vị vương tử thuộc giai cấp Sát Đế Lợi đều có cơ hội học luyện voi để sử dụng voi trong các cuộc chiến. Ngoài ra họ còn học đánh kiếm, bắn cung để bảo vệ ngay ngai vàng và sự nghiệp quân sự của chính mình, bởi vì ngày xưa chân lý lệ thuộc vào quân sự và sức mạnh. Kinh nghiệm luyện voi, cưỡi voi được các vương tử nắm rất vững.

Người luyện voi thiếu niềm tin sẽ không thể điều được con voi dữ. Voi càng dữ chừng nào thì giá trị phục vụ của nó cao chừng đó. Do đó phải có niềm tin. Thứ hai, người luyện voi cần sức khỏe để có thể chịu đựng và vượt qua những cú té ngã. Thứ ba, loài voi cũng rất nhạy cảm giác quan, biết cảm nhận thái độ ghét bỏ và hành hạ của chủ nhân, nếu người luyện voi có tính man trá, không thật tâm dùng kinh nghiệm của mình mà chỉ muốn trừng trị con voi thì nó sẽ kháng cự, do đó việc luyện voi khó có thể thành công. Nhiều người nài voi đã chết vì cá tính giận dữ và ghét bỏ các loài voi hơn là muốn huấn luyện nó trở thành một con voi giỏi. Thứ tư, biếng nhác là không thể thành công. Người biếng nhác chỉ làm việc theo cao hứng, nhất thời, do đó không sử dụng được năng lực vốn có. Sự thành công đòi hỏi quá trình nỗ lực bền bỉ lâu dài và đều đặn thì mới đạt kết quả. Cuối cùng, nếu không có trí thông minh, khôn ngoan thì dù cho có ý nguyện, có thao thức, có mong muốn cũng không thể nào có kết quả tốt.

Sau khi nghe vương tử Bodhi giải trình kiến thức về việc luyện voi, đức Phật mới nói: “Người học đạo muốn có được kết quả hạnh phúc, bất luận là người tại gia hay xuất gia, phải hội đủ năm yếu tố. Khi năm yếu tố này có mặt thì đừng bận tâm đến tính thời gian. Bảy năm, bảy tháng, bảy ngày, hay bảy tích tắc, hoàn toàn lệ thuộc vào phương pháp luận”.

Thiết thực hiện tại là một trong những nét đặc sắc của giáo pháp đức Phật. Do đó, khi hành trì, dù theo bất kỳ pháp môn nào, chúng ta cũng đừng nghĩ rằng sau khi chết sẽ sinh về Tây Phương cực lạc hưởng thụ. Trông chờ như thế là sai lầm. Phải thấy rằng trong mọi động tác hành trì lời Phật dạy, chúng ta có hạnh phúc ngay tức khắc. Sáng làm, chiều có kết quả, thậm chí có những tình huống trong lúc làm, chúng ta đã đang hưởng kết quả của sự lợi lạc. Nếu tu tập lâu mà không được hạnh phúc thì biết rằng chúng ta đã đi sai đường, cần phải điều chỉnh thông qua sự tư vấn và hướng dẫn của một nhà tâm linh có trình độ chuyên môn về lĩnh vực pháp môn mà chúng ta đang thực tập.

HẠNH PHÚC LÀ THỰC TẬP

Thứ nhất, phải tin rằng đức Phật không phải là thượng đế hay thần linh. Đây là điều chúng ta không tìm thấy trong các kinh thánh vốn quan niệm thượng đế là đấng sáng tạo có ba đức tính: toàn năng, toàn bi và toàn trí. Vì toàn năng nên ngài tạo dựng ra vũ trụ, vì toàn bi nên ngài thương các chủng loại với lòng bác ái, vì toàn trí nên ngài làm được những việc khó làm. Đức Phật nói, đó là những tuyên bố rỗng của con người tín ngưỡng nắn tạo ra các thượng đế hơn là thượng đế nắn tạo ra con người.

Đức Phật khuyên con người tin rằng ngài cũng là một con người như chúng ta. Nhưng thông qua quá trình vận động, phấn đấu của tự thân một cách đúng phương pháp, theo con đường trung đạo cho nên ngài có kết quả của an nhiên và giải thoát. Do đó ngài khuyên hãy tin vào chính ngài, đừng bao giờ mặc cảm tự ti bản thân mình. Đây là yếu tố tiên quyết.

Thứ hai, cần có sức khỏe và ít bệnh hoạn. Kinh Pháp Cú có câu tuyên ngôn của đức Phật: “Ít bệnh là phước báu lớn nhất”. Rất nhiều người giàu sang phú quý nhưng bệnh tật liên miên, bao nhiêu tiền tài sự nghiệp đổ dồn vào thuốc thang, bệnh viện và bác sĩ, ăn không ngon, ngủ không yên và do đó nỗi đau hành hạ suốt cả cuộc đời. Như vậy, muốn thành công, muốn có được hạnh phúc thật sự thì đừng để thân thể này vương vào bệnh tật. Chúng ta phải thực tập thiền, đi kinh hành, làm Phật sự, sám hối và gieo trồng thật nhiều để sức khỏe được đảm bảo. Điều chỉnh chế độ ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc một cách khoa học, quân bình thì sức khỏe mới dẻo dai và đường trường mới có thể có mặt.

Thứ ba, phải có tinh thần trung thực với lý tưởng Phật pháp và sự hành trì mình đã theo. Trong tình huống này, trung thực hay trung thành đều có ý nghĩa tương đương. Trung thực trong mối quan hệ, trung thành đối với chánh pháp, nghĩa là dù bị người dụ dỗ, áp đặt hay cưỡng bức phản bội lại chánh pháp, chúng ta vẫn kiên quyết duy trì, vì chánh pháp là hạnh phúc, bình an, chánh pháp mang lại giá trị cho cuộc đời. Phải có bản lĩnh không sợ hãi thì mới trung thành với chánh pháp của đức Phật được. Trung thực nghĩa là ngang ngay sổ thẳng, không man trá, không ứng xử mang tính cách xã giao mà sống bằng trái tim, bằng tấm lòng, làm việc gì cũng rõ ràng, minh bạch, lấy lợi ích của tha nhân lên làm chuẩn, nỗ lực, dấn thân và đi tiên phong; thành quả, hưởng thụ thì nhường lại cho người khác. Người có tính trung thực, liêm khiết được kinh điển nhà Phật gọi là bậc chân nhân. Người chân nhân là người sẽ thành công và hạnh phúc trong cuộc đời.

Thứ tư, siêng năng bỏ ác và thực tập điều lành. Rất nhiều người không muốn đến với đạo Phật, vì nghĩ mình chưa từng làm điều ác, như thể ai đến với đạo Phật đều là những người tội lỗi. Trên thực tế, không làm điều xấu thì không bị luật pháp trừng trị, nhưng không có phước. Muốn có phước báu thì phải gieo trồng những việc lành. Cho nên, “lánh ác làm lành” phải được thực hành một cách đồng bộ. Việc ngừng điều xấu giúp chúng ta không phải chịu những hậu quả trong tương lai. Gieo việc lành là để bỏ đi những điều xấu trong quá khứ, và thay đổi vận mệnh của cuộc đời.

Thứ năm, phải có trí tuệ, biết về sự sinh diệt và vận hành của mọi sự vật hiện tượng. Mặc dầu được đặt ở vị trí thứ năm, nhưng nó là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho bốn yếu tố vừa nêu.

Đức Phật nói, trí tuệ là sự vận hành, sinh diệt của mọi sự vật và hiện tượng. Khi chúng ta biết phát huy trí tuệ thì sẽ không còn niềm tin mê tín vào thần linh, thượng đế, định mệnh mà thấy rất rõ rằng mọi thứ trong cuộc đời là một tiến trình trôi chảy như dòng sông. Đã là một tiến trình trôi chảy, chúng ta có thể thay đổi nó theo ý muốn, theo nỗ lực, theo hành động và theo sự chuyển hóa của bản thân.

Khi đạt tuệ giác về mọi sự vật hiện tượng, chúng ta sẽ trở nên năng động và tích cực, không bàng quan, không tiêu cực, không ỷ lại mà làm thật nhiều để có kết quả cao. Trí tuệ về mọi sự sinh diệt trong đời sống là trí tuệ về vô thường, vô ngã, và duyên khởi. Đây là ba trọng tâm dẫn đến con đường tâm linh và tuệ giác của nhà Phật.

Không có trí tuệ về sự sinh diệt thì không thể hạnh phúc một cách lâu dài. Khi đối diện tang thương, mất mát, sinh ly tử biệt, nhờ trí tuệ sinh diệt này mà chúng ta không bị chao đảo, tổn thất.

Vừa qua, một gia đình dẫn cậu thanh niên ngoài hai mươi tuổi rất khôi ngô đến gặp chúng tôi. Họ hoài nghi đứa con bị ma nhập. Cậu này rơi vào tình trạng bị nỗi ám ảnh quá lớn từng diễn ra trong thời gian cậu ăn chơi vô lối. Nỗi khủng hoảng làm cho cậu bị mất trí, không biết mình là ai. Khi chúng tôi hỏi cậu tên gì, cậu nói tên một người phụ nữ; hỏi năm nay bao nhiêu tuổi, cậu ta trả lời đã chết lâu rồi. Chúng tôi hỏi chết khi nào? Tại sao chết? Thì cậu lắc đầu không biết. Hỏi cha mẹ của cậu là ai, cậu chỉ người cha ngồi kế bên.

Qua những câu trả lời, chúng tôi xác định cậu không bị ma nhập. Nếu bị ma nhập, cậu không thể chỉ người kế bên là cha ruột của mình mà phải nói cha là một hương linh nào đó chết cách đây bao nhiêu năm, vì cậu ta đã là một hương linh.

Sự rối loạn chức năng thần kinh làm cho người này không biết mình là ai. Khi vừa gặp chúng tôi, cậu tỏ ra vô cùng sợ hãi, cặp mắt mất thần, xanh mét ôm chầm lấy cha cậu và nói: “Thầy ơi, đừng tiến lại gần tôi, thầy ơi, đừng tiến lại gần tôi”. Chúng tôi phải dừng lại, không tới nữa. Đúng 6 giờ chiều, đồng hồ treo tường trong phòng chúng tôi vang: “keng, keng, keng” thì cậu ta vùng bỏ chạy.

Chúng tôi đã yêu cầu gia đình không nên dẫn đi thầy pháp, thầy cúng. Hãy đưa cậu đến bệnh viện tâm thần trị liệu. Tình cảm của người thân trong tình huống này là rất cần thiết, nếu không thể hiện kịp thời thì cậu ta từ việc khủng hoảng, rối loạn chức năng cái tôi, sẽ dẫn đến tình trạng trở thành kẻ điên loạn lâu dài.

Chúng tôi đề nghị cậu ta một bài thực tập nhỏ, khi thở ra vào hãy ý thức rõ rằng: “Tôi không sợ hãi, tôi đang hạnh phúc, tôi được bình an, tôi sống khỏe mạnh, không ai làm thương tổn đến tôi”. Cậu ta phải mất nửa tiếng mới thuộc được câu này. Một tuần sau, gia đình cho chúng tôi biết tình trạng của cậu đã tương đối khá hơn.

Do đó cần phải hiểu gốc rễ của từng vấn đề, tức là sự sinh và kết thúc của nó là sự diệt. Có kiến thức về nguyên nhân và kết quả của mọi vấn đề mà đức Phật gọi là trí tuệ về sự sinh diệt, thì chúng ta sẽ giải quyết nó một cách nhanh chóng. Bằng không, với phán đoán sai lầm, thì càng trị liệu càng làm cho vấn đề bế tắc nhiều hơn.

BA LẦN QUY Y TAM BẢO

Sau khi nghe đức Phật thuyết giảng, vương tử Bodhi rất tâm đắc đảnh lễ đức Phật. Người gia nhân thanh niên ngạc nhiên, vì từ xưa đến giờ hễ ai tâm đắc điều gì với đức Phật, người đó sẽ phát nguyện trở thành đệ tử của ngài. Người gia nhân thưa: “Thưa vương tử, sao ngài không trở thành đệ tử của đức Phật? Đây là cơ hội rất quý báu, ngài đã thỉnh mời đức Phật đến để cúng dường trai tăng thì việc quy ngưỡng đâu còn gì khó khăn. Đừng đánh mất cơ hội quý báu này”.

Vương tử Bodhi lạy đức Phật thêm một lạy nữa rồi mỉm cười với gia nhân: “Thực ra ngày hôm nay ta chưa kịp quy y chứ không phải không quy y. Đây không phải là lần quy y đầu tiên mà là lần quy y thứ ba. Lần đầu tiên, ta quy y trong lúc còn nằm trong bào thai mẹ. Lần thứ hai, khi được ba bốn tuổi, người vú nuôi là một Phật tử thuần thành đã xin phép vương phụ và hoàng hậu đưa ta đến bái kiến đức Phật. Và đây là lần thứ ba”. Sau đó vương tử kính cẩn thưa với đức Phật: “Xin ngài rộng lòng từ bi nhận con làm đệ tử tại gia của ngài từ đây cho đến trọn đời”. Đức Phật đã nhận lời.

Thông qua tình tiết này, chúng ta thấy rằng người Phật tử có thể quy y lại trong những tình huống cần thiết. Nếu thầy tổ vẫn còn sống thì chúng ta không cần thiết phải quy y lại, vì như thế có thể dẫn đến sự hiểu lầm. Chúng ta được quyền cầu đạo, học đạo với bất kỳ vị thầy tâm linh nào ngoài thầy mình. Đây là lời khuyến tấn theo tinh thần nhà Phật. Thiện Tài Đồng Tử đã từng đi tham vấn đến năm mươi hai vị thầy khác nhau. Chính đức Phật Thích Ca, trong kinh A Di Đà đã giới thiệu đệ tử của mình, tức là chúng sinh trong cõi ta bà với đức Phật A Di Đà và mong đức Phật A Di Đà hãy giáo huấn, hộ độ cho họ. Trong kinh Dược Sư, đức Phật khuyến tấn tất cả các hành giả hãy học theo hạnh trị liệu tâm linh của đức Phật Dược Sư. Đức Phật Thích Ca không ôm hết tín đồ về phía mình mà mong rằng tất cả những vị pháp hữu của ngài giúp ngài giáo hóa những người hữu duyên.

Theo tinh thần của đức Phật, các bậc thầy cũng không nên cấm kỵ học trò của mình đến học các vị thầy giỏi bằng hoặc hơn mình.

Quy y khi còn trong bào thai hay khi còn quá nhỏ tuổi, chúng ta chỉ mới tiếp nhận được phần phước báu và sự hỗ trợ từ phía người thân chứ chưa trực tiếp hiểu giáo nghệ cao siêu huyền diệu và những đời sống đạo đức thông qua việc quy ngưỡng tâm linh ở đạo Phật. Lúc đó việc quy y lại là cần thiết, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn những lý tưởng, những tinh thần và sự hành trì. Trong tình huống này, mặc dù đã từng quy y, thầy chúng ta vẫn còn sống nhưng chúng ta vẫn có thể xin phép quy y lại với một vị thầy khác hữu duyên.

Số lần quy y nhiều hay ít không quan trọng mà quan trọng rằng đó là cơ hội hâm nóng, nhắc nhở rằng chúng ta là người Phật tử và do đó mọi ứng xử, lời nói việc làm phải thể hiện chất liệu của sự giác ngộ để có được hạnh phúc lâu dài.

Bài kinh muốn ám chỉ, quy ngưỡng Phật Pháp Tăng chính là một trong những cửa ngõ của hạnh phúc. Chưa chọn một vị thầy lý tưởng thì hãy nên quy ngưỡng Tam bảo, vì tinh thần của nhà Phật không phải vì chúng ta kính ngưỡng cá nhân một vị thầy, vị sư cô mà chúng ta đến với đạo Phật với lòng kính ngưỡng Phật, kính ngưỡng giáo pháp của ngài thông qua sự hành trì mang lại lợi lạc cho chúng ta. Chủ nghĩa thần tượng hoàn toàn đi ngược với tinh thần nhà Phật, cho nên quy ngưỡng Phật pháp là quy ngưỡng con đường hành trì. Đây là trọng tâm khác biệt căn bản giữa đạo Phật với các tôn giáo tín ngưỡng và phong tục tập quán khác.

Truyền thống Phật giáo Trung Hoa có vị tổ tên là Tiêu Lục Sư, ba mươi lần học giới luật nhà Phật về một bản văn mà ngài đã nắm rất nằm lòng. Học lại ba mươi lần như thế để cho các vấn đề về giáo luật, đạo đức và sự hành trì trở thành như là hơi thở, là phản ứng tự nhiên và vô điều kiện.

Chúng ta có khuynh hướng khi đã biết rồi thì sinh nhàm chán. Biết là một lẽ nhưng biến nó thành một phần của sự sống lại là chuyện khác. Học đi học lại nhiều lần không có gì để thấy chán, vì chưa chắc chúng ta đã hiểu thấu đáo. Hoặc giả có hiểu thấu đáo thì chưa chắc đã thực tập một cách trọn vẹn. Cho nên mỗi lần học lại một lời kinh, chúng ta nên phát huy tư duy và làm mới chính nó.

Tùy theo tình huống tâm lý, nhận thức, hoàn cảnh môi trường chúng ta sống mà sự tiếp nhận nó được thể hiện theo cách thức này hoặc cách thức nọ. Sẽ không bao giờ gọi là cũ và nhàm nếu chúng ta biết đọc kinh bằng tinh thần tư duy và khám phá như vừa nêu. Hòa thượng Thích Trí Tịnh, năm nay ngoài chín mươi tuổi, lãnh đạo Phật giáo, là một nhà phiên dịch thành công kinh điển Đại Thừa, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi, đến nay ngày nào Hòa thượng cũng vẫn đọc kinh.

***

Nói tóm lại, phương pháp hạnh phúc là làm những việc phước báu bằng tâm hồn rộng lượng đáp ứng các nhu cầu của những hoàn cảnh bất hạnh.

Thứ hai, bản chất của hạnh phúc liên hệ đến con đường trung đạo chứ không phải trải qua những nỗi khổ niềm đau để có được nó.

Thứ ba, thời gian để đạt hạnh phúc lệ thuộc vào phương

pháp và sự hành trì. Nếu đi đúng thì thời gian có thể rất ngắn, bằng ngược lại, có thể phải mất vài chục năm nhưng cũng chẳng đi tới đâu.

Thứ tư, phương pháp hạnh phúc phải gắn liền việc thực hành bát chánh đạo, có lòng tin, sức khỏe, sự trung thực, siêng bỏ ác làm lành, và trí tuệ về sinh diệt của sự vật hiện tượng thì chúng ta mới có được giá trị an lạc trong đới sống hiện tại này.

Cuối cùng, phương pháp thứ năm là dù có giỏi, có thông minh cũng không nên bỏ lỡ cơ hội quy y Tam Bảo.

Có một số Phật tử vô danh đọc kinh rất nhiều, hành trì rất hay nhưng vì kén và không kính phục Tam Bảo nên không muốn quy y. Họ cho rằng mình giỏi hơn các quý thầy thì không cần quy y. Thực chất quy y không liên hệ đến giỏi hay dở mà quy y để tìm cái đích đến.

Đối với đức Phật, chúng ta chỉ là hạt cát so với núi Tu Di, là một con đom đóm sáng lập lòe so với ánh sáng mặt trời, là một giọt nước so với đại dương. Cho nên quy ngưỡng ngài là cơ hội quý báu để học được rất nhiều điều ở ngài, và trở thành ngài trong tương lai. Còn quy ngưỡng giáo pháp để có năng lực hành trì. Lấy giáo pháp làm thầy, chúng ta không còn rơi vào chủ nghĩa thần tượng cá nhân dẫn đến tình huống có thể bị sụp đổ thần tượng. Người xuất gia cũng nên xem Tam Bảo là thầy chứ không chỉ riêng người tại gia. Chúng ta cần mạnh dạn điều chỉnh quan niệm sai lầm rằng “tôi là đệ tử của thầy A, tôi là học trò của sư cô B” mà phải sửa lại là “tôi là đệ tử của Tam bảo”.

Kinh điển từ Nam tông đến Bắc tông không câu nào mặc ước việc chúng ta quy y thầy A, thầy B thì phải là đệ tử của thầy đó. Vị thầy đó chỉ là người khai tâm mở đạo và hướng dẫn chúng ta trở thành đệ tử của tất cả những người xuất gia chân chính. Có như thế, chúng ta sẽ không còn có những tinh thần mười hai sứ quân: Thầy của ta, giáo pháp của ta, pháp môn của ta, ngôi chùa của ta,… mà là thầy của tất cả, giáo pháp của tất cả,… và cùng làm việc vì lợi ích chung. Đây là tinh thần chủ đạo mà đức Phật đã nêu trong bài kinh này.