Phần III : LỜI KHUYẾN TU CỦA TỔ QUY SƠN LINH HỰU

(QUY SƠN CẢNH SÁCH VĂN)
Thích Nhật Từ dịch
Tháng 8-2012

1. NHẬN THỨC VÔ THƯỜNG

Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành.

Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị bội. Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế.

Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu.

Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?

2. LÀM NGƯỜI THONG DONG

Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự.

Miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly.

Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị tỷ kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng.

Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh.

Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất.

Đạo sư hữu sắc, giới húc tỷ kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc.

Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực.

3. VƯỢT THÓI PHÀM TỤC

Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Quỹ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết.

Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ.

Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.

Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô.

Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất tiên khởi.

Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô; khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu.

Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo.

4. KHÔNG HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI

Như tư chi kiến cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm nhân gian, toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường.

Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.

Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng.

Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu.

Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp.

Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy.

Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi.

Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số.

Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi.

Lược thân quản kiến, dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.

5. GƯƠNG HẠNH THOÁT TỤC

Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu.

Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị.

Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm.

Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.

Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời.

Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng.

Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn.

Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn.

Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận;

Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.

6. CĂN BẢN THIỀN TẬP

Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.

Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên.

Bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu; thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm.

Thử tắc phá tam giới nhị thập ngũ hữu, nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh.

Bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục.

Văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na biên ứng dụng bất khuyết.

Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu.

Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc.

7. TÂM NGUYỆN NGƯỜI TU

Thử chi nhất học tối huyền tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám. Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp.

Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì.

Trú chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng thiên tầm: phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích.

Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh thù diệu nhân quả.

Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến.

Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi.

Cổ vân, bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích.

Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân.

Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối, tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông.

8. GIÚP NHAU THOÁT KHỎI SINH TỬ

Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị.

Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ.

Cố kinh vân: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ.”

Cố tri tam giới hình phạt oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật.

Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì.

Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:

9. BÀI MINH TÓM TẮT

Huyễn thân mộng trạch,

Không trung vật sắc,

Tiền tế vô cùng,

Hậu tế ninh khắc?

Xuất thử một bỉ,

Thăng trầm bì cực,

Vị miễn tam luân,

Hà thời hưu tức?

Tham luyến thế gian,

Ấm duyên thành chất,

Tùng sanh chí lão,

Nhất vô sở đắc.

Căn bản vô minh,

Nhân tư bị hoặc,

Quang âm khả tích,

Sát na bất trắc.

Kim sanh không quá,

Lai thế trất tắc.

Tùng mê chí mê,

Giai nhân lục tặc,

Lục đạo vãng hoàn,

Tam giới bồ bặc.

Tảo phóng minh sư,

Thân cận cao đức,

Quyết trạch thân tâm,

Khử kỳ kinh cước.

Thế tự phù hư,

Chúng duyên khởi bức,

Nghiên cùng pháp lý,

Dĩ ngộ vi tắc.

Tâm cảnh câu quyên,

Mạc ký mạc ức,

Lục căn di nhiên,

Hành trú tịch mặc.

Nhất tâm bất sanh,

Vạn pháp câu tức.

1. NHẬN THỨC VÔ THƯỜNG

Vì nghiệp buộc mà nên thân vóc

Do hình hài khó thoát khổ thân

Tinh cha, trứng mẹ tạo nên

Cơm ăn, nước uống, nhờ duyên hình thành.

Bốn đại chủng tương quan, tương thuộc

Rồi đồng thời xung khắc lẫn nhau

Vô thường, già, bệnh đến mau

Sớm còn tối mất, giây sau đổi đời.

Như sương móc vừa rơi thắm thoát

Nắng đầu ngày bỗng chốc thành không!

Dây leo, cây mọc bờ sông

Tuổi đời ngắn ngủi, vô thường đến nhanh.

Mỗi tâm niệm diệt sanh chóng mặt

Ngày tháng dường chỉ một sát-na

Kiếp người hơi thở vào ra

Chớ nên bỏ mặc, trôi qua biếng lười.

2. LÀM NGƯỜI THONG DONG

Xa cha mẹ, mấy khi phụng dưỡng

Lìa người thân, hương đảng, tông đường

Không còn nghĩa vụ nối dòng

Không màng chính trị, chuyên ròng công phu.

Quyết cạo tóc cầu sư học đạo

Giữ niềm chơn, hoằng pháp độ sinh

Chuyển nghiệp đời, quý hòa bình,

Hướng về giải thoát, rộng thênh con đường.

Vừa thọ giới tự phong “đại đức”

Chẳng nghĩ công đàn việt cúng dâng

Cơm: thí chủ, của: mười phương

Không tự dưng có, huênh hoang được gì!

Ăn vừa dứt, thị phi phù phiếm

Chụm đầu vào toàn chuyện thế gian

Ham vui, ấy chính khổ nhân

Nỗi trôi bao kiếp nhiễm trần, khó thông.

Thời gian mất, tháng năm lần lữa

Hưởng thụ nhiều, khó bỏ thói quen

Chạy theo danh sắc hại tâm

Chứa gôm tài vật, lụy thân huyễn này?

Xưa Phật dạy các thầy tu sĩ

Đạo trang nghiêm, thân thể tịnh thanh

Chuyện ăn, mặc, ngủ: chớ tham

Thường không đầy đủ; chuyên tâm tu hành.

Kẻ phàm tục đắm tham, khó dứt

Tháng ngày trôi, phút chốc bạc đầu.

Mới tu chưa hiểu đạo mầu,

Học tu, tham vấn; chớ sầu áo cơm.

3. VƯỢT THÓI PHÀM TỤC

Phật chế Luật khai tâm, chuyển hóa

Gìn oai nghi, sạch tựa tuyết băng

Dừng sai, giới hạnh trắng trong

Hiểu rành điều cấm để không phạm vào.

Quyết nuôi dưỡng “tâm đầu” gìn giữ

Tế hạnh đều đầy đủ hành trì

Niệm tâm trong lúc đứng, đi

Vượt qua thói tệ; Tỳ-ni nằm lòng.

Buông giới luật, không thông kinh giáo

Uổng một đời, láo ngáo luống trôi

Kệ kinh chẳng chút đoái hoài

Đạo mầu khó ngộ, tháng ngày khổ đau.

Tuổi tác lớn, tự cao, bụng rỗng

Không bạn lành; ngạo mạn, huênh hoang

Kinh chẳng thuộc, nghĩa chẳng thông

Chẳng hay tự chủ, buông lung tháng ngày.

Quen lớn tiếng, nói lời vô phép

Không kính, nhường hạ lạp thấp cao

Ăn xong dậy trước, bỏ sau

Uống ăn khua bát, ồn ào khó nghe.

Trái phép tắc, hạnh tu chẳng có

Ngồi, đứng, đi như thể người đời

Làm thì động chúng, rối bời

Sống không gương mẫu, không ai(1) nễ mình.

Được nhắc nhở, biện minh đủ lẽ

“Nào tôi tu núi cả, hang sâu”

Không rành pháp Phật nhiệm mầu,

Thói đời vẫn nhiễm, đạo cao chẳng rành.

4. KHÔNG HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI

Đó là bởi sơ tâm biếng nhác

Chạy theo đời, nhiễm mắc thói đời,

Lớn già, quê kệch, lôi thôi

Gặp việc chẳng biết, hỡi ơi, bí lù.

Kẻ hậu học hỏi thưa rát cổ

Chẳng biết gì, nên chả giúp gì

Nói sai kinh, bị người chê

Cho là vô lễ, sân si, lấn người.

Một mai bệnh, hỡi ơi, khổ cực

Bao đớn đau trói buộc tấm thân

Sớm lo, tối hoảng tinh thần

Tương lai mờ mịt, biết đường nào đây?

Ra nông nỗi, tiếc đời ta bạc

Đào giếng ư, lúc khát khô mồm?

Hận mình chẳng sớm tu nhân

Đến khi già bệnh, lỗi lầm triền miên.

Khi chết đến, thân liền tan rã

Tâm hoang mang, lo sợ mà thôi

Cũng như lồng thủng chim bay

Tâm do nghiệp kéo, đầu thai tức thời

Như con nợ bị lôi, mất sức

Nghiệp nặng ghì, lê bước theo sau

Ác nhiều sinh ở cõi sầu

Thiện sinh cõi phúc, khổ đau giả từ.

Dòng tâm niệm trôi đi không dứt

Quỷ vô thường bất giác kề bên

Thời gian không kéo dài thêm

Mạng người sẽ chết, chớ quên điều này.

Trong ba cõi luân hồi khó thoát

Phải tái sinh bao kiếp nỗi trôi

Nghiệp duyên, sinh tử vậy thôi

Trầm luân lên xuống, lâu dài biết bao.

Vì thương xót, lòng đau như cắt

Khó nín thinh, khuyên nhắc mấy lời

Chúng ta cách Phật bao đời

Sinh thời tượng pháp, nhiều người chẳng siêng

Chẳng quản ngại tài hèn, trí kém

Khuyên người sau tinh tấn tu thân

Nếu không bỏ thói kêu căng

Con đường chuyển hóa xa dần, khó xong.

5. GƯƠNG HẠNH THOÁT TỤC

Người tu học hướng phương trời rộng

Thân và tâm khác bọn phàm phu

Nối truyền giống Phật, dẹp ma

Bốn ân quyết trả, cứu ba đường phàm.

Chưa được thế, là tăng sĩ dỏm

Hạnh và lời trống rỗng, đáng thương

Tốn hao tín thí, cuống cuồng

Cả đời lựng khựng, tựa nương chỗ nào?

Làm tăng sĩ, hạnh cao, tướng đẹp

Do nhiều đời gieo hạt giống lành

Cớ sao chẳng quý thời gian!

Khoanh tay chểnh mãng, bỏ hoang cuộc đời?

Sự nghiệp đạo chẳng hoài, lười biếng

Chẳng công phu, tu tiến được sao?

Đời này luống uổng qua mau

Nhân nào quả nấy, đời sau tiêu tàn!

Mặc pháp phục, song thân từ giả

Hướng tâm về chí cả, trời cao

Sớm hôm nghĩ nhớ đạo mầu

Tiếc từng giây phút, lúc nào cũng tu.

Làm cho được cột nhà Phật pháp

Vì hậu sinh, gương mẫu tấm thân

Giữ gìn phong độ tu hành

Những người như thế xứng hàng chân tăng.

Mọi lời lẽ thấm nhuần kinh pháp

Luận đàm gì cũng khớp thánh nhân

Hình dung đỉnh đạc, đàng hoàng

Nêu cao chí khí, thênh thang đạo vàng.

Hành trình lớn, cần nương bạn tốt

Gạn đục trong, thanh lọc mắt, tai

Gần nhau, chọn bạn mà chơi

Biết điều chưa biết, sáng ngời thấy nghe.

Sanh thân vóc là do cha mẹ

Trưởng thành nhờ thầy cả, bạn hiền

Đi trong sương móc thường xuyên

Tuy không ước áo, lạnh mèm tấm thân.

Chơi kẻ ác lớn thêm nghiệp ác

Nhân xấu thường phải chuốt khổ đau

Chết rồi chìm đắm cõi sầu

Trôi lăn nhiều kiếp, biết bao giờ ngừng?

6. CĂN BẢN THIỀN TẬP

Lời ngay thẳng trái ngang thính giác

Nghe xong rồi khắc cốt ghi tâm

Vun trồng đức hạnh, ẩn danh

Lánh xa huyên náo, tinh thần sáng trong.

Khi đã muốn tham thiền, học đạo

Hãy vượt lên phương tiện sơ môn

Nghiên tầm nghĩa lý tâm tông

Đạo mầu tỏ ngộ, nguồn chơn nằm lòng.

Học thầy giỏi, sống nương bạn tốt.

Thiền tông cao khó đạt, khó thông

Dụng tâm tinh tế hết lòng

Chánh nhân đốn ngộ, thoát vòng trầm luân.

Đó là thoát hăm lăm cảnh giới

Không kẹt vào ba cõi bụi hồng

Trong ngoài các pháp đều không

Từ tâm biến hiện, danh suông thôi mà!

Tâm chẳng dính, sa đà theo cảnh

Thì cảnh nào bám dính được tâm

Nương theo pháp tánh thậm thâm

Chẳng buông, chẳng nắm cảnh trần thong dong.

Mắt thấy sắc, tai đương nghe tiếng

Gìn thản nhiên, chẳng vướng cõi lòng

Tích môn và cả bản môn

Ứng dụng đầy đủ, vẹn tròn đạo tâm.

Người như vậy xứng danh tu sĩ

Mặc pháp y chẳng phí chút nào

Trên đền đáp bốn ân sâu

Dưới thương ba cõi, dãi dầu độ sanh.

Nếu kiếp kiếp giữ tâm không chuyển

Quả Phật kia sẽ chứng được thôi

Ra vào ba cõi độ người

Noi gương mô phạm, cứu đời trầm luân.

7. TÂM NGUYỆN NGƯỜI TU

Lối học đó thậm thâm, mầu nhiệm

Lòng dặn lòng, thể nghiệm thực hành.

Hạng trung chưa thể tựu thành

Tâm nghiền thánh giáo, ôn tầm nghĩa chơn.

Nắm nghĩa lý, tuyên dương chánh pháp

Độ người sau, báo đáp Phật ân.

Chuyên tu, chớ phí thời gian

Nương công hạnh ấy, làm nhân cứu mình.

Biết nương tựa thắng nhân, hạnh tế

Xứng vào hàng pháp khí Tăng đoàn.

Nhìn xem dây sắn quấn quanh

Bám cây tùng bách, ngang tầm trời cao.

Chớ buông lơi, thiếu sót, lỗi lầm

Giữ gìn phong cách tu tâm

Nhân nào quả nấy, thậm thâm khó lường.

Chớ luống uổng tháng năm vô ích

Dòng đời trôi vùn vụt qua nhanh

Quý từng tích tắc thời gian

Quyết lòng tu tiến, ngày càng thăng hoa.

Chớ lạm dụng đàn na cung dưỡng

Khó đáp đền bốn trọng ân kia

Chứa nhiều, tâm bít, u mê

Bị đời khinh rẻ, cười chê tháng ngày.

“Người trượng phu, ta đây cũng thế

Chớ khinh mình mà tự thoái lui.”

Bằng không luống uổng một đời

Tự ti vô ích cho người và ta.

Chí nguyện lớn phát ra mạnh mẽ

Hoài bão hùng, nối chí cao nhân

Chớ theo lè thói hư hèn

Đời ta ta quyết, chớ nương người ngoài.

“Dứt vọng thức, buông duyên ngoại tại

Cảnh và tâm hết đối chọi nhau

Tâm không, cảnh tịch: Nhiệm mầu.”

Chỉ vì bế tắc quá lâu, chẳng rành.

8. GIÚP NHAU THOÁT KHỎI SINH TỬ

Hãy nghiền ngẫm lời văn Cảnh sách

Giành chủ quyền coi sóc bản thân

Vượt qua lề thói nghiệp trần

Một khi quả trổ, trốn quanh khó lòng.

Âm thanh thuận tiếng vang hòa thuận

Hình thẳng ngay, bóng dáng thẳng ngay

Nhân nào quả nấy xưa nay

Không thể không sợ, có ngày đến ta.

Kinh đã dạy: “Trải qua ngàn kiếp

Nghiệp đã gieo chẳng mất đi đâu

Nhân duyên hội ngộ, đáo đầu

Ai làm nấy chịu, khổ đau bám rình.”

Trong ba cõi, nghiệp hình ràng buộc

Ám hại ta chẳng khác sát nhân

Ngày đêm nỗ lực chuyên cần

Kẻo không, năm tháng trôi nhanh được gì?

Thấy họa, tội, tôi đây tha thiết

Khuyên người sau tâm huyết thực hành

Làm bạn đạo khắp tử sinh

Tâm thành ghi lại lời Minh thế này:

9. BÀI MINH TÓM TẮT

“Thân huyễn khác nào nhà mộng,

Rỗng không hình hài bóng sắc

Truy nguyên quá khứ không cùng

Hướng về tương lai không chắc.

Ẩn hiện nơi này, nơi khác

Lên xuống ba đường cực nhọc

Nếu không thoát khỏi ba vòng

Khổ đau bao giờ mới dứt?

Mãi mê tham luyến thế gian

Năm uẩn gặp duyên chồng chất

Từ lúc sinh ra đến chết

Hầu như không gì giữ được!

Chỉ vì còn kẹt vô minh

Rốt cuộc chìm trong mê hoặc

Hãy quý từng phút từng giây

Cuộc đời vô thường bất trắc.

Đời này luống qua vô ích

Đời sau gặp nhiều ngăn lấp

Vướng kẹt mê này mê khác

Hoành hành đều do sáu giặc.

Qua lại, loanh quanh sáu đường

Ba cõi xuống lên lăn lóc

Quyết chí tầm sư học đạo

Siêng năng nương bậc cao đức.

Quán chiếu, làm chủ thân tâm

Diệt trừ tất cả gai góc

Đời như gió thổi mây bay

Trần lao quá nhiều áp lực.

Nghiên cứu thực hành Kinh Phật

Quyết lòng đạt được tuệ giác

Đến khi tâm cảnh đều quên

Xóa mờ làn ranh ký ức.

Dẹp yên sáu giặc giác quan

Đi, đứng, nằm, ngồi: Tĩnh mặc

Một khi tâm đã không sinh

Muôn pháp trong ngoài đều dứt.

 

 

 

 

 
00:00