(QUY SƠN CẢNH SÁCH VĂN)
Thích Nhật Từ dịch
Tháng 8-2012
1. NHẬN THỨC VÔ THƯỜNG Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị bội. Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá? 2. LÀM NGƯỜI THONG DONG Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự. Miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly. Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị tỷ kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc tỷ kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực. 3. VƯỢT THÓI PHÀM TỤC Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Quỹ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ. Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô; khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu. Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo. 4. KHÔNG HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI Như tư chi kiến cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm nhân gian, toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân. Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu. Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy. Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số. Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi. Lược thân quản kiến, dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán. 5. GƯƠNG HẠNH THOÁT TỤC Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì. Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời. Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng. Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn. Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận; Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục. 6. CĂN BẢN THIỀN TẬP Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt. Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên. Bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu; thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm. Thử tắc phá tam giới nhị thập ngũ hữu, nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh. Bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục. Văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na biên ứng dụng bất khuyết. Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc. 7. TÂM NGUYỆN NGƯỜI TU Thử chi nhất học tối huyền tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám. Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp. Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng thiên tầm: phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích. Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh thù diệu nhân quả. Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi. Cổ vân, bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích. Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối, tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông. 8. GIÚP NHAU THOÁT KHỎI SINH TỬ Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị. Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ. Cố kinh vân: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ.” Cố tri tam giới hình phạt oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật. Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết: 9. BÀI MINH TÓM TẮT Huyễn thân mộng trạch, Không trung vật sắc, Tiền tế vô cùng, Hậu tế ninh khắc? Xuất thử một bỉ, Thăng trầm bì cực, Vị miễn tam luân, Hà thời hưu tức? Tham luyến thế gian, Ấm duyên thành chất, Tùng sanh chí lão, Nhất vô sở đắc. Căn bản vô minh, Nhân tư bị hoặc, Quang âm khả tích, Sát na bất trắc. Kim sanh không quá, Lai thế trất tắc. Tùng mê chí mê, Giai nhân lục tặc, Lục đạo vãng hoàn, Tam giới bồ bặc. Tảo phóng minh sư, Thân cận cao đức, Quyết trạch thân tâm, Khử kỳ kinh cước. Thế tự phù hư, Chúng duyên khởi bức, Nghiên cùng pháp lý, Dĩ ngộ vi tắc. Tâm cảnh câu quyên, Mạc ký mạc ức, Lục căn di nhiên, Hành trú tịch mặc. Nhất tâm bất sanh, Vạn pháp câu tức. |
1. NHẬN THỨC VÔ THƯỜNG Vì nghiệp buộc mà nên thân vóc Do hình hài khó thoát khổ thân Tinh cha, trứng mẹ tạo nên Cơm ăn, nước uống, nhờ duyên hình thành. Bốn đại chủng tương quan, tương thuộc Rồi đồng thời xung khắc lẫn nhau Vô thường, già, bệnh đến mau Sớm còn tối mất, giây sau đổi đời. Như sương móc vừa rơi thắm thoát Nắng đầu ngày bỗng chốc thành không! Dây leo, cây mọc bờ sông Tuổi đời ngắn ngủi, vô thường đến nhanh. Mỗi tâm niệm diệt sanh chóng mặt Ngày tháng dường chỉ một sát-na Kiếp người hơi thở vào ra Chớ nên bỏ mặc, trôi qua biếng lười. 2. LÀM NGƯỜI THONG DONG Xa cha mẹ, mấy khi phụng dưỡng Lìa người thân, hương đảng, tông đường Không còn nghĩa vụ nối dòng Không màng chính trị, chuyên ròng công phu. Quyết cạo tóc cầu sư học đạo Giữ niềm chơn, hoằng pháp độ sinh Chuyển nghiệp đời, quý hòa bình, Hướng về giải thoát, rộng thênh con đường. Vừa thọ giới tự phong “đại đức” Chẳng nghĩ công đàn việt cúng dâng Cơm: thí chủ, của: mười phương Không tự dưng có, huênh hoang được gì! Ăn vừa dứt, thị phi phù phiếm Chụm đầu vào toàn chuyện thế gian Ham vui, ấy chính khổ nhân Nỗi trôi bao kiếp nhiễm trần, khó thông. Thời gian mất, tháng năm lần lữa Hưởng thụ nhiều, khó bỏ thói quen Chạy theo danh sắc hại tâm Chứa gôm tài vật, lụy thân huyễn này? Xưa Phật dạy các thầy tu sĩ Đạo trang nghiêm, thân thể tịnh thanh Chuyện ăn, mặc, ngủ: chớ tham Thường không đầy đủ; chuyên tâm tu hành. Kẻ phàm tục đắm tham, khó dứt Tháng ngày trôi, phút chốc bạc đầu. Mới tu chưa hiểu đạo mầu, Học tu, tham vấn; chớ sầu áo cơm. 3. VƯỢT THÓI PHÀM TỤC Phật chế Luật khai tâm, chuyển hóa Gìn oai nghi, sạch tựa tuyết băng Dừng sai, giới hạnh trắng trong Hiểu rành điều cấm để không phạm vào. Quyết nuôi dưỡng “tâm đầu” gìn giữ Tế hạnh đều đầy đủ hành trì Niệm tâm trong lúc đứng, đi Vượt qua thói tệ; Tỳ-ni nằm lòng. Buông giới luật, không thông kinh giáo Uổng một đời, láo ngáo luống trôi Kệ kinh chẳng chút đoái hoài Đạo mầu khó ngộ, tháng ngày khổ đau. Tuổi tác lớn, tự cao, bụng rỗng Không bạn lành; ngạo mạn, huênh hoang Kinh chẳng thuộc, nghĩa chẳng thông Chẳng hay tự chủ, buông lung tháng ngày. Quen lớn tiếng, nói lời vô phép Không kính, nhường hạ lạp thấp cao Ăn xong dậy trước, bỏ sau Uống ăn khua bát, ồn ào khó nghe. Trái phép tắc, hạnh tu chẳng có Ngồi, đứng, đi như thể người đời Làm thì động chúng, rối bời Sống không gương mẫu, không ai(1) nễ mình. Được nhắc nhở, biện minh đủ lẽ “Nào tôi tu núi cả, hang sâu” Không rành pháp Phật nhiệm mầu, Thói đời vẫn nhiễm, đạo cao chẳng rành. 4. KHÔNG HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI Đó là bởi sơ tâm biếng nhác Chạy theo đời, nhiễm mắc thói đời, Lớn già, quê kệch, lôi thôi Gặp việc chẳng biết, hỡi ơi, bí lù. Kẻ hậu học hỏi thưa rát cổ Chẳng biết gì, nên chả giúp gì Nói sai kinh, bị người chê Cho là vô lễ, sân si, lấn người. Một mai bệnh, hỡi ơi, khổ cực Bao đớn đau trói buộc tấm thân Sớm lo, tối hoảng tinh thần Tương lai mờ mịt, biết đường nào đây? Ra nông nỗi, tiếc đời ta bạc Đào giếng ư, lúc khát khô mồm? Hận mình chẳng sớm tu nhân Đến khi già bệnh, lỗi lầm triền miên. Khi chết đến, thân liền tan rã Tâm hoang mang, lo sợ mà thôi Cũng như lồng thủng chim bay Tâm do nghiệp kéo, đầu thai tức thời Như con nợ bị lôi, mất sức Nghiệp nặng ghì, lê bước theo sau Ác nhiều sinh ở cõi sầu Thiện sinh cõi phúc, khổ đau giả từ. Dòng tâm niệm trôi đi không dứt Quỷ vô thường bất giác kề bên Thời gian không kéo dài thêm Mạng người sẽ chết, chớ quên điều này. Trong ba cõi luân hồi khó thoát Phải tái sinh bao kiếp nỗi trôi Nghiệp duyên, sinh tử vậy thôi Trầm luân lên xuống, lâu dài biết bao. Vì thương xót, lòng đau như cắt Khó nín thinh, khuyên nhắc mấy lời Chúng ta cách Phật bao đời Sinh thời tượng pháp, nhiều người chẳng siêng Chẳng quản ngại tài hèn, trí kém Khuyên người sau tinh tấn tu thân Nếu không bỏ thói kêu căng Con đường chuyển hóa xa dần, khó xong. 5. GƯƠNG HẠNH THOÁT TỤC Người tu học hướng phương trời rộng Thân và tâm khác bọn phàm phu Nối truyền giống Phật, dẹp ma Bốn ân quyết trả, cứu ba đường phàm. Chưa được thế, là tăng sĩ dỏm Hạnh và lời trống rỗng, đáng thương Tốn hao tín thí, cuống cuồng Cả đời lựng khựng, tựa nương chỗ nào? Làm tăng sĩ, hạnh cao, tướng đẹp Do nhiều đời gieo hạt giống lành Cớ sao chẳng quý thời gian! Khoanh tay chểnh mãng, bỏ hoang cuộc đời? Sự nghiệp đạo chẳng hoài, lười biếng Chẳng công phu, tu tiến được sao? Đời này luống uổng qua mau Nhân nào quả nấy, đời sau tiêu tàn! Mặc pháp phục, song thân từ giả Hướng tâm về chí cả, trời cao Sớm hôm nghĩ nhớ đạo mầu Tiếc từng giây phút, lúc nào cũng tu. Làm cho được cột nhà Phật pháp Vì hậu sinh, gương mẫu tấm thân Giữ gìn phong độ tu hành Những người như thế xứng hàng chân tăng. Mọi lời lẽ thấm nhuần kinh pháp Luận đàm gì cũng khớp thánh nhân Hình dung đỉnh đạc, đàng hoàng Nêu cao chí khí, thênh thang đạo vàng. Hành trình lớn, cần nương bạn tốt Gạn đục trong, thanh lọc mắt, tai Gần nhau, chọn bạn mà chơi Biết điều chưa biết, sáng ngời thấy nghe. Sanh thân vóc là do cha mẹ Trưởng thành nhờ thầy cả, bạn hiền Đi trong sương móc thường xuyên Tuy không ước áo, lạnh mèm tấm thân. Chơi kẻ ác lớn thêm nghiệp ác Nhân xấu thường phải chuốt khổ đau Chết rồi chìm đắm cõi sầu Trôi lăn nhiều kiếp, biết bao giờ ngừng? 6. CĂN BẢN THIỀN TẬP Lời ngay thẳng trái ngang thính giác Nghe xong rồi khắc cốt ghi tâm Vun trồng đức hạnh, ẩn danh Lánh xa huyên náo, tinh thần sáng trong. Khi đã muốn tham thiền, học đạo Hãy vượt lên phương tiện sơ môn Nghiên tầm nghĩa lý tâm tông Đạo mầu tỏ ngộ, nguồn chơn nằm lòng. Học thầy giỏi, sống nương bạn tốt. Thiền tông cao khó đạt, khó thông Dụng tâm tinh tế hết lòng Chánh nhân đốn ngộ, thoát vòng trầm luân. Đó là thoát hăm lăm cảnh giới Không kẹt vào ba cõi bụi hồng Trong ngoài các pháp đều không Từ tâm biến hiện, danh suông thôi mà! Tâm chẳng dính, sa đà theo cảnh Thì cảnh nào bám dính được tâm Nương theo pháp tánh thậm thâm Chẳng buông, chẳng nắm cảnh trần thong dong. Mắt thấy sắc, tai đương nghe tiếng Gìn thản nhiên, chẳng vướng cõi lòng Tích môn và cả bản môn Ứng dụng đầy đủ, vẹn tròn đạo tâm. Người như vậy xứng danh tu sĩ Mặc pháp y chẳng phí chút nào Trên đền đáp bốn ân sâu Dưới thương ba cõi, dãi dầu độ sanh. Nếu kiếp kiếp giữ tâm không chuyển Quả Phật kia sẽ chứng được thôi Ra vào ba cõi độ người Noi gương mô phạm, cứu đời trầm luân. 7. TÂM NGUYỆN NGƯỜI TU Lối học đó thậm thâm, mầu nhiệm Lòng dặn lòng, thể nghiệm thực hành. Hạng trung chưa thể tựu thành Tâm nghiền thánh giáo, ôn tầm nghĩa chơn. Nắm nghĩa lý, tuyên dương chánh pháp Độ người sau, báo đáp Phật ân. Chuyên tu, chớ phí thời gian Nương công hạnh ấy, làm nhân cứu mình. Biết nương tựa thắng nhân, hạnh tế Xứng vào hàng pháp khí Tăng đoàn. Nhìn xem dây sắn quấn quanh Bám cây tùng bách, ngang tầm trời cao. Chớ buông lơi, thiếu sót, lỗi lầm Giữ gìn phong cách tu tâm Nhân nào quả nấy, thậm thâm khó lường. Chớ luống uổng tháng năm vô ích Dòng đời trôi vùn vụt qua nhanh Quý từng tích tắc thời gian Quyết lòng tu tiến, ngày càng thăng hoa. Chớ lạm dụng đàn na cung dưỡng Khó đáp đền bốn trọng ân kia Chứa nhiều, tâm bít, u mê Bị đời khinh rẻ, cười chê tháng ngày. “Người trượng phu, ta đây cũng thế Chớ khinh mình mà tự thoái lui.” Bằng không luống uổng một đời Tự ti vô ích cho người và ta. Chí nguyện lớn phát ra mạnh mẽ Hoài bão hùng, nối chí cao nhân Chớ theo lè thói hư hèn Đời ta ta quyết, chớ nương người ngoài. “Dứt vọng thức, buông duyên ngoại tại Cảnh và tâm hết đối chọi nhau Tâm không, cảnh tịch: Nhiệm mầu.” Chỉ vì bế tắc quá lâu, chẳng rành. 8. GIÚP NHAU THOÁT KHỎI SINH TỬ Hãy nghiền ngẫm lời văn Cảnh sách Giành chủ quyền coi sóc bản thân Vượt qua lề thói nghiệp trần Một khi quả trổ, trốn quanh khó lòng. Âm thanh thuận tiếng vang hòa thuận Hình thẳng ngay, bóng dáng thẳng ngay Nhân nào quả nấy xưa nay Không thể không sợ, có ngày đến ta. Kinh đã dạy: “Trải qua ngàn kiếp Nghiệp đã gieo chẳng mất đi đâu Nhân duyên hội ngộ, đáo đầu Ai làm nấy chịu, khổ đau bám rình.” Trong ba cõi, nghiệp hình ràng buộc Ám hại ta chẳng khác sát nhân Ngày đêm nỗ lực chuyên cần Kẻo không, năm tháng trôi nhanh được gì? Thấy họa, tội, tôi đây tha thiết Khuyên người sau tâm huyết thực hành Làm bạn đạo khắp tử sinh Tâm thành ghi lại lời Minh thế này: 9. BÀI MINH TÓM TẮT “Thân huyễn khác nào nhà mộng, Rỗng không hình hài bóng sắc Truy nguyên quá khứ không cùng Hướng về tương lai không chắc. Ẩn hiện nơi này, nơi khác Lên xuống ba đường cực nhọc Nếu không thoát khỏi ba vòng Khổ đau bao giờ mới dứt? Mãi mê tham luyến thế gian Năm uẩn gặp duyên chồng chất Từ lúc sinh ra đến chết Hầu như không gì giữ được! Chỉ vì còn kẹt vô minh Rốt cuộc chìm trong mê hoặc Hãy quý từng phút từng giây Cuộc đời vô thường bất trắc. Đời này luống qua vô ích Đời sau gặp nhiều ngăn lấp Vướng kẹt mê này mê khác Hoành hành đều do sáu giặc. Qua lại, loanh quanh sáu đường Ba cõi xuống lên lăn lóc Quyết chí tầm sư học đạo Siêng năng nương bậc cao đức. Quán chiếu, làm chủ thân tâm Diệt trừ tất cả gai góc Đời như gió thổi mây bay Trần lao quá nhiều áp lực. Nghiên cứu thực hành Kinh Phật Quyết lòng đạt được tuệ giác Đến khi tâm cảnh đều quên Xóa mờ làn ranh ký ức. Dẹp yên sáu giặc giác quan Đi, đứng, nằm, ngồi: Tĩnh mặc Một khi tâm đã không sinh Muôn pháp trong ngoài đều dứt. |