42. KINH NƯƠNG TỰA AI KHI PHẬT QUA ĐỜI?
***
PHẬT LÀ NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG
Tôi nghe như vầy. Sau khi Thế Tôn qua đời không lâu, ngài Ananda đang cư trú tại tu viện Trúc Lâm thuộc thành Vương-xá. Vua A-xà-thế, nước Ma-kiệt-đà do lòng hoài nghi ông Đăng Quang Vương [1] nên đã truyền lệnh xây dựng kiên cố khu thành Vương-xá. Một sáng sớm nọ, sau khi đắp y, thay vì vào thành Vương-xá khất thực, ngài Ananda đến chỗ làm việc của Bà-la-môn Mog-ga-lla-na. Mog-ga-lla-na tỏ vẻ mừng rỡ, thưa với tôn giả: O
– Lành thay! Lành thay! Ngài Ananda, từ lâu lắm rồi, ngài mới tạo duyên, quang lâm nơi này. Xin mời ngài ngồi vào chỗ soạn sẵn.
Ngài Ananda an nhiên ngồi xuống. Moggallana ngồi xuống một bên, trên ghế thấp hơn, rồi cung kính thưa:
– Có khả năng chăng, một vị xuất gia đạt được trọn vẹn tất cả pháp mầu mà ngài Cồ-đàm, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác đã thành tựu được?
– Không có trường hợp một vị xuất gia đạt được trọn vẹn tất cả pháp mầu mà đức Thế Tôn đã chứng đạt được. Thế Tôn là bậc xây dựng con đường trước chưa từng có, giúp cho mọi người biết được con đường trước chưa từng biết, tuyên bố con đường trước chưa được nói. Thế Tôn là bậc hiểu đạo, ngộ đạo, lão luyện về đạo. Đệ tử Thế Tôn chỉ là những người sống tùy hành đạo và sẽ thành tựu chánh đạo về sau. O
CHÁNH PHÁP LÀ NƠI NƯƠNG TỰA
Cuộc đàm đạo này đã bị gián đoạn, khi Bà-la-môn Vas-sa-ka-ra là bậc đại thần nước Ma-kiệt-đà thị sát công sự tại thành Vương-xá, ghé ngang qua nơi hai vị đàm đạo. Vas-sa-ka-ra muốn biết câu chuyện đang được đàm luận. Ngài Ananda tường thuật nội dung.
– Thưa ngài Anan, có vị Tăng nào được Phật sắp đặt làm nơi nương tựa cho cả Tăng đoàn, sau khi đức Phật lìa bỏ cõi đời?
– Này Bà-la-môn, không có vị nào được Phật sắp đặt làm nơi nương tựa của cả Tăng đoàn.
– Thưa ngài Anan, có vị Tăng nào được cả Tăng đoàn và các trưởng lão thỏa thuận thỉnh cử làm nơi nương tựa cho cả Tăng đoàn?
– Không có vị nào đã được thỉnh cử vào chỗ như thế. O
– Thưa ngài Anan, theo sự tình này, không có vị nào làm nơi nương tựa, thì nhờ duyên gì Tăng đoàn có thể sống trong hòa hợp?
– Này Bà-la-môn, tất cả chúng tôi có nơi nương tựa. Chỗ nương tựa tốt của đệ tử Phật là giáo pháp ngài.
– Thưa ngài Anan, phải hiểu thế nào về lời ngài nói?
– Khi còn sinh tiền, Thế Tôn ban hành giới bổn xuất gia với các học pháp. Những ngày Bố-tát, các vị xuất gia trong làng phụ cận đều tụ họp lại tại một trú xứ, hỏi han lẫn nhau về chuyện xảy ra đối với từng người. Nếu ai phạm giới, chúng tôi yêu cầu phải làm đúng Pháp, như lời Phật dạy. Không phải tôn giả xử lý chúng tôi. Chính giáo pháp Phật xử xét chúng tôi. O
MƯỜI HẠNH ĐÁNG ĐƯỢC TÔN KÍNH
– Thưa ngài Anan, có vị Tăng nào được cả Tăng đoàn cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, thậm chí nương tựa?
– Này Bà-la-môn, có nhiều vị Tăng thuộc hàng như thế. Đó là những vị đủ mười pháp hỷ được Phật tuyên dạy, đáng được cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, nương tựa. Trong chúng tôi đây, bất cứ vị nào đủ mười pháp hỷ đều xứng đáng được mọi người nương tựa. Mười pháp hỷ là: O
Một có giới hạnh, tự làm chủ mình với giới Cụ Túc, đầy đủ oai nghi, thể hiện chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong lỗi nhỏ nhặt, nỗ lực thực tập, thọ trì học pháp.
Hai là đa văn, tiếp thu điều nghe, nắm giữ điều học; pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa và văn, tỏ hạnh tâm linh hoàn toàn thanh tịnh, khi nghe liền học, làm cho quen thuộc, luôn luôn tâm niệm, khéo được chánh kiến.
Ba là biết đủ với các vật dụng: y phục, thực phẩm, sàng tọa, thuốc thang.
Bốn là đạt thiền, tùy theo ý muốn, không hề khó khăn, chứng được bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm, hạnh phúc hiện tiền.
Năm là đạt được thần thông sai biệt, hiện ra nhiều thân, biến lại một thân, hiện hình biến mất, xuyên tường vách núi, bay lửng trên không, độn thổ nhiều cách, trên nước không chìm, ngồi thế hoa sen ở giữa không gian như chim có cánh; tay chạm mặt trăng, với tới mặt trời, những vật oai lực, oai thần to lớn, bay đến Phạm thiên.
Sáu là thần thông rõ biết tâm người. Vào tâm chúng sinh, tâm người tâm mình, vị ấy biết rõ: tâm tham biết tham, tâm sân biết sân, tâm si biết si; không tham sân si biết rõ không có; biết rõ các tâm chuyên chú, tán loạn, đại hành hay không, vô thượng hay chưa, thiền định mức nào; giải thoát nhiều ít.
Bảy là thần thông nghe được các tiếng của người và vật, không bị gián cách.
Tám là thần thông biết rõ đời trước của bản thân mình, một hay nhiều kiếp, từ nét đại cương cho đến chi tiết.
Chín là thiên nhãn, thấy rõ chúng sinh, người giàu kẻ nghèo, người đẹp kẻ xấu, người luôn may mắn, kẻ nhiều bất hạnh, đều do nghiệp tạo.
Mười là thấy rõ lậu hoặc đã hết. Khi diệt lậu hoặc, chứng bằng thượng trí, vững trong hiện tại, không còn rơi rớt, tâm được giải thoát, giải thoát bằng tuệ.
Này Bà-la-môn, ai đạt đầy đủ mười pháp khả hỷ được Thế Tôn dạy, là đáng cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, nương tựa. O
TU THIỀN CHUYỂN HÓA
Nghe trình bày xong, vị Bà-la-môn tên là Vũ Thế [2] là quan đại thần nước Ma-kiệt-đà, thưa với tướng quân Upananda:
– Tướng quân nghĩ sao, các tôn giả này đã sống cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, nương tựa những người xứng đáng; nếu không làm thế, ai xứng đáng được?
Dứt lời Vũ Thế hỏi ngài A-nan:
– Xin ngài cho biết, ngài đang ở đâu ?
– Này Bà-la-môn, tôi ở Trúc Lâm.
– Có phải Trúc Lâm là nơi lý tưởng, cảnh trí yên tịnh, xa khu dân cư, được che khỏi gió, thích hợp thiền định?
– Đúng là Trúc Lâm, một nơi lý tưởng, cảnh trí yên tịnh, xa khu dân cư, được che khỏi gió, thích hợp thiền định, xứng đáng với người hộ trì như bạn. O
– Nó thật thích hợp với người tu thiền, chuyên tu về thiền như quý tôn giả. Thưa ngài A-nan, khi đức Phật ở giảng đường Trùng Các trong rừng Đại Lâm, thuộc Vesali, tôi đến gặp người, được nghe người dạy về thiền định luận với nhiều phương tiện. Thế Tôn đích thực là người tu thiền, lão luyện về thiền, khen ngợi nhiều cách các loại thiền định. O
– Này Bà-la-môn, không hẳn như thế. Thế Tôn không khen các loại thiền định. Các loại thiền định [làm cho hành giả] dính vào dục tham cũng như sân si, bị chúng chi phối, nên không biết được cách thoát khỏi chúng, khi chúng có mặt. Với pháp thiền này, dục tham và sân được quan niệm là đối tượng tối hậu của tiến trình thiền: Thiền tu, thiền tư, thiền định, thiền nhập. Một số pháp thiền, thiền sinh bị dính hôn trầm, ngủ nghỉ, dao động, hối hận và sự hoài nghi. Các loại thiền này, Phật không tán thán.
Phương pháp thiền định được Phật tán thán là thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, hành giả đạt được cấp thiền thứ hai, trạng thái hỷ lạc do thiền định sanh, không tầm, không tứ. Nội tĩnh nhất tâm, chứng thiền thứ ba. Xả niệm thanh tịnh, chứng thiền thứ tư. O
– Thưa ngài A-nan, Thế Tôn tán thán thiền đáng tán thán, đồng thời khiển trách thiền không đúng pháp. Chúng tôi phải đi, vì còn nhiều việc, phận sự phải làm.
– Này Bà-la-môn, bạn hãy làm gì được xem hợp thời.
Khi ông Thế Vũ, đứng dậy ra đi với niềm hoan hỷ lời ngài A-nan, ông Bà-la-môn Mog-ga-la-na, cung kính thưa rằng:
– Nếu phía chúng tôi không ai chịu hỏi thời tôn giả đây đã không trả lời.
– Này Bà-la-môn, tôi đã nói rằng: “Không tu sĩ nào thành tựu mười pháp như Thế Tôn được. Thế Tôn là người giới thiệu con đường trước chưa từng biết, giúp cho mọi người biết rõ con đường trước chưa từng biết, tuyên bố con đường trước chưa từng nghe. Thế Tôn là người hiểu đạo, ngộ đạo, lão luyện về đạo. Đệ tử của ngài, nay và mai sau, là người hành đạo, tùy hành đạo lý, sẽ thành tựu được con đường về sau”. O
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần) O
1. Pajjota.
2. Vassakara.
***