MỤC LỤC
Lời nói đầu
PHẦN DẪN NHẬP:
1. Nguyện Hương
2. Đảnh Lễ Tam Bảo
3. Tán Hương
4. Tán Dương Giáo Pháp
PHẦN NỘI DUNG:
5. Phật Nói Kinh Thiện Sanh
6. Lạy Báo Ân
7. Bốn Điều Phát Nguyện
8. Lời Chúc Phúc Của Chú Rễ
9. Trao Nhẫn Cưới
10. Lời Chúc Phúc Của Hai Họ
11. Cảm Ơn Của Đôi Tân Hôn
12. Niệm Phật Gia Trì
PHẦN HỒI HƯỚNG
13. Hồi Hướng Công Đức
14. Đảnh Lễ Ba Ngôi Báo
LỜI NÓI ĐẦU
Nghi Thức Lễ Thành Hôn tên gọi phổ quát hoá, thay cho nghi thức Lễ Hằng Thuận, được HT. Thích Đôn Hậu khởi xướng vào những thập niên đầu của thế kỷ 20. Hằng Thuận gọi đủ là “Hằng thuận chúng sinh”, là lời nguyện thứ 9 của Bồ-tát Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm.
Trong triết học Phật giáo, chúng sinh được hiểu bao gồm các loại hình động vật và thực vật. Về sau, khái niệm này được sử dụng chỉ cho loài người. Do đó, “hằng thuận chúng sinh” là nghệ thuật sống hoà hợp, đoàn kết, độ lượng với người khác. Chủ ý của HT. Thích Đôn Hậu là thông qua Lễ Hằng Thuận, đôi tân hôn phải sống hoà thuận, nhường nhịn trong tinh thần tương kính. Đây là mấu chốt của đời sống hạnh phúc gia đình.
Việc đổi tên nghi thức từ “Lễ Hằng Thuận” thành “Lễ Thành Hôn” là nhằm nỗ lực phổ quát hoá, nghi thức này giúp cho mọi người thấy rõ được nhu cầu và giá trị của việc tổ chức lễ cưới tại chùa. Gần một thế kỷ trôi qua, nghi thức Lễ Hằng Thuận, do tên gọi Hán Việt của nó và triết lý ẩn chứa trong đó, phần lớn Phật tử vẫn chưa hiểu đó là thuật ngữ Phật học dành cho lễ cưới.
Trong kinh Thánh và văn học của các tôn giáo, có thể nói Kinh Phật đề cập nhiều nhất đến tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc gia đình cho giới tại gia. Rất tiếc là, hơn 2000 năm qua, người tại gia sử dụng chung nghi thức tu học với người xuất gia. Điều đó đã dẫn đến một hiện thực, khi trọng tâm của đời sống tâm linh xuất gia là chuyển hoá ái dục, thánh hoá bản thân, trở thành thánh nhân, trải nghiệm giải thoát, được nhấn mạnh thì tất yếu trong nghi thức hành trì sẽ không có đề cập đến lễ cưới. Trong khi đó, người tại gia được đức Phật cho phép hưởng hạnh phúc trần đời với tình yêu, gia đình theo tinh thần một vợ một chồng. Việc tổ chức lễ cưới tại Chùa thông qua nghi thức Lễ Thành Hôn là một nhu cầu cần thiết, mang ý nghĩa văn hoá, đạo đức và tâm linh.
Về phương diện văn hoá, tổ chức lễ cưới tại Chùa là một truyền thống tốt đẹp, theo đó, không có các loài gia súc bị giết chết, không có rượu bia được thiết đãi, không có thuốc lá được hút, không có cờ bạc và các loại vui chơi thấp kém hiện hữu. Đề cao và mở rộng truyền thống này chắc chắn sẽ mang lại hạnh phúc gia đình.
Về phương diện đạo đức và tâm linh, tổ chức lễ cưới tại Chùa sẽ giúp cho đôi tân nương và tân lang hiểu rõ được năm trách nhiệm đạo đức xã hội của mỗi bên, cũng như năm trọng trách trong việc giáo dục con cái. Được chúc phúc và được hướng dẫn nghệ thuật sống hạnh phúc trong thương yêu và tương kính, đôi vợ chồng sẽ thực hiện được các cam kết chăm sóc và bảo hộ hạnh phúc cho nhau. Theo đó, tình trạng “chồng chúa, vợ tôi” và các hình thức chủ nghĩa “gia trưởng” sẽ không thể tồn tại.
Ngoài các ràng buộc trong hôn nhân như một yêu cầu thể hiện nghĩa vụ và quyền lợi, vợ và chồng phải xem nhau là đôi bạn đời, dìu dắt nhau trên mọi nẻo đường. Khi nghĩ chồng/ vợ của mình là bạn đời, sự chung thuỷ sẽ được siết chặc, việc chăm sóc và mang lại hạnh phúc cho người kia sẽ trở thành tình nguyện trong niềm vui. Ý niệm về bạn đời giúp cho cả hai sống bằng tinh thần dâng hiến và phục vụ, thay vì là những đòi hỏi hoặc yêu cầu bên còn lại phải đáp ứng hay chìu chuộng mình.
2. Về nghi thức: Các nghi thức trước đây, nội dung bản đọc tụng thông thường là Thần chú Đại Bi và Tâm Kinh Bát Nhã. Chú Đại Bi được sử dụng chúc phúc. Bát Nhã Tâm Kinh thường được đọc bằng âm Hán Việt nên khó hiểu, nếu không nói là xa lạ và không liên hệ trực tiếp đến nội dung lễ cưới. Trong rất nhiều các bài kinh, kinh Thiện Sinh là bản văn quý giá về đời sống hạnh phúc gia đình và các tương quan xã hội. Nghi thức này sử dụng phần trọng tâm của kinh Thiện Sinh do chúng tôi dịch từ bộ Trường A Hàm, có khả năng soi sáng đời sống gia đình và xã hội với các chuẩn mực đạo đức. Tính hợp thời của bản kinh này được xem là siêu việt thời gian và phù hợp với các nền văn hoá lớn trên thế giới.
Đôi tân hôn và hai họ đọc kinh Thiện Sinh trước khi chính thức tác lễ hôn phối sẽ có những chấn động tâm thức, dẫn đến sự tình nguyện thực hiện các chuẩn mực đạo đức gia đình theo trình tự: Tình yêu, hôn nhân, làm cha mẹ, sanh con cái… từ đó tương quan vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, gia đình và làng xóm, chủ lao lộng và người hợp đồng lao động, công dân và quốc gia được thể hiện một cách trọn vẹn.
Phần “Bốn điều phát nguyện” trong nghi thức khích lệ đôi tân hôn giữ gìn truyền thống văn hoá Việt Nam và gia tộc, đồng thời cam kết hướng dẫn con cháu trở thành Phật tử từ nhỏ, kể cả gia đình sống trong hạnh phúc.
Phần hướng dẫn “Trao nhẫn cưới” cần ngắn gọn và mang ý nghĩa soi sáng để đôi tân hôn hiểu được ý nghĩa “nhường nhịn là điều lành”. Trao nhẫn cưới cho nhau là trao trái tim yêu đương trong hiểu biết và cảm thông theo tinh thần: “Dầu cho vật đổi sao dời/ Tình chồng nghĩa vợ trọn đời bên nhau.”
Lời chúc phúc của vị chủ lễ cần nhấn mạnh đến các yếu tố xây dựng hạnh phúc gia đình, trách nhiệm của vợ chồng, thể hiện sự hoà kính đối với gia đình hai họ và nghệ thuật vượt qua những khó khăn chung. Vì là một lễ cưới, lời chúc phúc nầy không nên quá dài.
Hy vọng rằng Nghi Thức Lễ Thành Hôn sẽ là sổ tay hành lễ tại các chùa. Đồng thời cũng hy vọng rằng giới trẻ ý thức nhiều hơn về ý nghĩa văn hóa, đạo đức và tâm linh của việc tổ chức lễ cưới tại Chùa, tình nguyện và yêu cầu gia đình thực hiện nghi thức trên một cách trang nghiêm và trọng thể tại các ngôi Già-lam.
Trân trọng
Chùa Giác Ngộ, 30-05-2010
Thích Nhật Từ