MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Chương 1: Nhận thức tổng quát
I. Tác giả soạn dịch kinh Bát Đại Nhân Giác
II. Xuất xứ
III. Liên hệ các kinh Bát Niệm, Anuruddha Sutta và kinh Bát Đại Nhân Giác
IV. Giới thiệu nội dung kinh Bát Niệm của A Hàm
V. Vài lời giải thích
Chương 2: Giải thích nội dung kinh Bát Đại Nhân Giác
A. Phần mở đầu
Bài I
B. Phần nội dung kinh
Bài II
Bài III
Bài IV
Bài V
Bài VI
Bài VII
Bài VIII
Bài IX
C. Phần kết thúc kinh
Bài X
D. Thay lời kết luận
Giới thiệu mẫu người lý tưởng
LỜI GIỚI THIỆU
Kinh Bát Đại nhân Giác là một tác phẩm Kinh điển Đại thừa, ngôn ngữ súc tích, ý nghĩa cô đọng như các danh ngôn của Kinh Pháp Cú, không mang hình thức pháp thoại như những Kinh truyền thống, nhưng lại cần thiết cho mọi đối tượng.
Nội dung căn bản của kinh nhấn mạnh về: Thiểu dục, Tri túc, Chánh niệm, Tinh tấn, Trí tuệ. Vì đó là những bước đi cần phải có để bước lên thánh đạo, dù là Nguyên thủy hay Đại thừa.
Dựa trên nền tảng đó, TT. Thích Viên Giác đã vận dụng sở tu và sở học của mình để minh chứng, đối chiếu, thẩm định giá trị nội dung tư tưởng của kinh. Đặc biệt tác giả đã chọn kinh này để giảng dạy ở các trường Phật Học. Trong quá trình giảng dạy, với kinh nghiệm sẵn có, tác giả đã phân tích, chỉ ra mục tiêu, phương pháp hành trì về hạnh bố thí, hạnh yểm ly, hạnh phát nguyện theo tinh thần của kinh. Ngày nay, Kinh Bát Đại nhân Giác không chỉ là bộ kinh quan trọng trong các trường Phật Học mà còn là tác phẩm gối đầu giường cho hầu hết các Tăng, Ni và Phật tử theo truyền thống Bắc truyền.
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệm và đại nguyện mà trí tuệ phát sanh. Con đường quán niệm và đại nguyện là con đường của Bát Đại nhân Giác.
Hạnh bố thí là nhịp cầu từ bi mà người thực tập bất luận là tại gia hay xuất gia. Thông thường, người xuất gia thực hành pháp thí, người tại gia thì thực hành tài thí. Bố thí là một trong sáu hạnh Ba la mật trong truyền thống Đại thừa rất được nhấn mạnh. Người Phật tử tại gia có điều kiện hơn về tài thí, trong khi pháp thí là sự dấn thân của người xuất gia.
Hạnh yểm ly hay ly nhiễm chính là xa rời năm dục. Đối với người xuất gia, đây là bước đầu của sự thực tập tâm linh, nhưng đối với người tại gia thì hạnh này là nhu cầu quan trọng, giúp họ không đắm chìm trong khoái lạc thế trần. Người cư sĩ dấn thân vào cuộc sống, thực hành Bồ-tát hạnh, cần phải sống như hoa sen trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Hạnh tu phát nguyện là dấn thân vào ba cõi sáu đường dưới nhiều hình thức khác nhau để dìu dắt chúng sanh chuyển hoá khổ đau, sống đời hạnh phúc. Đây là hạnh lợi tha tuyệt đối, là lý tưởng của Bồ-tát, là một hạnh nguyện vĩ đại. Phải là người có tâm từ bi lớn và trí tuệ lớn mới thực hành thành công. Tiêu biểu cho hạnh nầy là Bồ-tát Địa Tạng. Ngài Địa Tạng phát đại nguyện rằng khi nào địa ngục hết chúng sanh chịu khổ Ngài mới thành Phật. Con đường Bồ-tát rất coi trọng về nguyện lực. Từ nguyện lực mà tuệ giải thoát phát sanh. Dĩ nhiên công hạnh tu tập này phù hợp với người cư sĩ tại gia với các tư cách xã hội mà họ đang gánh vác, có thể góp phần làm vơi đi nỗi bất hạnh của cuộc đời.
Giá trị nội dung tư tưởng của Kinh Bát Đại nhân Giác là nghệ thuật dấn thân qua hành động đi vào cuộc đời, hóa độ chúng sanh. Do đó, bất kể cư sĩ tại gia hay xuất gia, thực tập hạnh Bồ-tát cần ứng dụng và hành trì kinh này trong cuộc sống.
Sài gòn, đầu xuân Mậu Tý – 2008
Thích Nhật Từ
Phó viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM