“Người luôn luôn chánh niệm,
Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan,
Chỉ bậc bất tử biết.”
(Kinh Pháp Cú - Câu 374, HT. Thích Minh Châu dịch)
Từ Pali Dhammapada có thể được dịch là ‘Những bước trên con đường giáo pháp’. Tác phẩm nổi tiếng nầy được chia làm nhiều phần, mỗi phần có nhiều đoạn kệ: là những câu kệ được Đức Phật nói ra vào những dịp khác nhau, nhằm giáo huấn về các đề tài khác nhau. Tuy nhiên, những lời dạy nầy thật xúc tích, cô đọng nên mỗi đoạn kệ tự nó là một bài tiểu luận.
Để diễn giải đoạn kinh được trích dẫn ở trên, tôi (Ni Sư Ayya Khema) muốn trước hết phân tích nghĩa của một số từ trong câu đó. Đức Phật nói về khả năng đạt được an vui hạnh phúc của chúng ta và đó là điều mà tất cả chúng ta đều muốn đạt được. Nhân loại tìm cầu hạnh phúc bằng nhiều cách, qua nhiều thứ khác nhau, thường là ở các đối tượng bên ngoài. Chúng ta cố gắng, bằng đủ mọi cách, để đạt được hạnh phúc, và khi có rồi thì ta muốn giữ chặt lấy nó. Ta nghĩ rằng mình sẽ luôn được hạnh phúc nếu có thể giữ chặt một cái gì đó, một người nào đó hoặc một sự kiện gì mà đã có lần đem lại cho ta hạnh phúc. Thế nên ta thường cố tìm hạnh phúc trong của cải vật chất, hay làm một việc gì đó mà ta nghĩ sẽ làm mình thỏa mãn. Nhưng từ thuở khai thiên lập địa, chưa ai là người có thể giữ được hạnh phúc luôn bên mình.
Đức Phật dạy là để tìm được hạnh phúc chúng ta phải tu tập. Ta có thể nói nghề nghiệp đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng dù cố gắng tự nhủ mình đến mấy là ta cảm thấy mãn nguyện vì đã làm được nhiều việc ích lợi cho đời, nhưng khi nhìn kỹ lại ta thấy thứ hạnh phúc nầy không trường cửu và trong thâm tâm ta vẫn bồn chồn, bất ổn. Khi mang tâm trạng buồn chán như thế, người ta lại thường nghĩ rằng có gì đó không ổn ở bên ngoài - họ không nhận ra được rằng điều mà họ đang cảm nhận đến từ nội tâm của mình.
Cách suy nghĩ thông thường của ta luôn là muốn được một cái gì đó. Ngay cả khi cái mà chúng ta muốn là một điều lành mạnh, tốt đẹp, ta cũng thấy là dù có cố gắng cách mấy, ta không thể lúc nào cũng an vui, do đó ta lại muốn một cái gì mới hơn, khác hơn. Đức Phật chỉ cho chúng ta một phương cách khác hẳn. Ngài muốn dạy ta những cách suy nghĩ mới, chỉ cho ta bước lên một tầng cao hơn, dựa trên thực tế chứ không phải ở sự mong cầu. Thí dụ như nếu ta đã thử đủ mọi cách và nhận ra rằng của cải vật chất không làm ta hạnh phúc, chính kiến thức đó cũng mang đến cho ta đôi chút hạnh phúc rồi. Trong đoạn kinh nầy, Đức Phật dạy:
Người thường suy gẫm trong tâm
Sự sanh diệt của các uẩn, . . .
Uẩn là các thành phần của cái ta. Trước nhất là thân, cái mà ta tự đồng hóa khi ta nghĩ “Đây là ta”. Sau đó là tâm, cái mà đức Phật chia làm bốn phần: Trước tiên, thức – mà chúng ta cảm nhận được qua tiếp xúc với các giác quan của cái nhìn, nghe, ngửi, nếm, hay xúc; thứ hai là thọ, hoặc vui hoặc buồn, phát sinh dựa vào sự xúc chạm của các giác quan, kể cả các tình cảm; thứ ba, tưởng theo sau các cảm giác; thứ tư, hành là phản ứng đối với tưởng -cũng được gọi là tâm hành.
Chúng ta có thể phân tích tâm sâu hơn, để bao gồm, thí dụ, ý chí như là một trong những thành phần của tâm. Tuy nhiên, chúng ta thường chỉ chú tâm vào bốn phần nầy: thức, thọ, tưởng và hành.
Chúng ta cần chú ý đến năm uẩn, ít nhất là đến sự phân chia của tâm và thân, bốn phần kia là những phương tiện qua đó chúng ta có thể giải đáp câu hỏi tâm thực sự là gì. Ta có thể kiểm nghiệm việc này ngay tức khắc: giờ phút này những cái bạn đang cảm nhận được gồm có thấy, xúc chạm và nghe. Bạn có thể không nếm hay ngửi cái gì ngay lúc nầy, nhưng ba trong năm giác quan của bạn đang có sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài và qua đó chúng để lại một cảm thọ mà ta sẽ không nhận biết được nếu ta không thực tập chánh niệm. Cái cảm giác ban sơ rất vi tế, nên thay vào đó chúng ta thường vướng vào các phản ứng, mạnh mẽ hơn nhiều. Giữa hai cảm nhận này (thọ và hành) là tưởng, và điều này thì cũng tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Mặc dầu hai người có thể cùng nhìn một vật, mỗi người có thể cảm nhận khác nhau và phản ứng tùy theo đó; khi một người nhìn cái gì đó thấy đẹp, người khác có thể cảm thấy dửng dưng hoặc cho là nó xấu xí là đằng khác. Đây là lý do tại sao ít khi chúng ta để ý đến cảm giác hoặc nhận thức của mình. Khi nghe ai nói điều gì, ta có thể tự nhủ ‘thật vô lý,’ hoặc ‘thật là hay,’ hoặc ‘tôi không cần biết,’ hay ‘tôi đã biết rồi.’ Ta quá bận rộn với những phản ứng của mình nên khó mà thấy được giữa sự xúc chạm và phản ứng còn có những cảm giác và nhận thức. Do đó, trước hết ta phải kiểm nghiệm thật kỹ các cảm quan của mình cũng như những phản ứng phát sinh từ đó. Ta có thể dễ dàng nhận ra các phản ứng nầy và quá trình nhận thức đó sẽ giúp ta làm quen với sự có mặt của các uẩn.
Thông thường thì chúng ta hành động theo các phản ứng của mình và tìm cách hoàn thiện chúng bằng cách chuyển hóa các cảm quan của mình. Ta tìm cách nghe, nếm, ngửi, hoặc xúc chạm thứ gì khác hơn những cái thường làm, nhưng ta luôn bị các thói quen đã huân tập đưa vào đường cũ. Thật ra ta phải thấy ngay rằng đây là một phương cách không hiệu quả và chẳng lâu bền. Thế nhưng ta vẫn tiếp tục tìm đủ mọi cơ hội để thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm những thứ mới lạ khác. Tuy nhiên, ta có thể đi theo một con đường mới. Trên con đường nầy, thay vì đồng hóa với các phản ứng của bản thân thì ta có thể quán sát chúng.
Điều này nói thì dễ nhưng khó làm. Và chắc chắn là cần có sự thực tập vì chúng ta thường theo cách suy nghĩ cho các phản ứng là ta và xem đó là đúng. Vì xét cho cùng, đó là các phản ứng của ta. Nếu ta xem các tư tưởng của mình, ngay cả những tư tưởng tiêu cực là chính xác, chỉ vì chúng là của mình, thì lẽ tự nhiên ta sẽ tiếp tục chờ đợi hạnh phúc đến từ thế giới bên ngoài. Và vì thế, ta tránh né những gì có thể đem lại cho ta những phản ứng khó chịu, rồi tiếp tục đi tìm những gì mà ta cho rằng sẽ đem lại cho mình lạc thú. Lẽ đương nhiên là, dù có cố gắng đến đâu, ta cũng không thể có được một cuộc đời chỉ toàn là lạc thọ, nhưng vì quá mải mê theo đuổi con đường nầy mà ta chẳng nhận ra được là ta cũng có thể tìm được hạnh phúc bằng một con đường hoàn toàn khác. Dù không kiếm tìm chúng ta cũng có lúc có lạc thọ. Một trong những lợi lạc của kiếp sống con người là sẽ không thiếu những cơ hội để ta được hưởng những hạnh phúc đó. Hầu hết chúng ta đều có đồ ăn và thức uống thích hợp, hưởng thời tiết tốt, được xem hoa nở và có người để trò chuyện. Những điều này tự chúng không có gì là xấu, song nếu ta bám theo các cảm thọ nầy và dốc hết sức lực để đuổi theo các lạc thọ, ta sẽ đi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Ta sẽ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc cho tâm hồn mình bằng con đường đó. Chính vì lẽ này mà trong đoạn kệ nói trên, đức Phật dạy chúng ta hãy quán sát sự sinh diệt của các uẩn, xem chúng đến và đi như thế nào. Điều nầy có thể được thực hiện một cách đơn giản bằng sự chú ý quan sát bản thân. Vì quá để ý đến người khác, ta quên mất một điều là trước khi hiểu được người, ta phải biết rõ chính mình. Cái mà chúng ta nhận ra được ở người khác chỉ là cái mà chúng ta đã tự khám phá ra ở ngay nơi mình.
Ta có thể quán sát sự sinh diệt của các ý nghĩ, các cảm thọ; chúng đến và đi như thế nào thật rõ ràng và rành mạch; điều này không có gì khó. Thế nhưng vì quá đắm chìm trong các cảm thọ của mình, mà ta không nhận thấy chúng biến đi nhanh thế nào. Một ý nghĩ thường biến mất ngay khi nó vừa khởi sinh, trừ trường hợp một ý tuởng mới lại phát sinh dựa vào nó trong một chuỗi tư tưởng - ngay chính như thế ý nghĩ ban đầu cũng đã biến mất. Hiển nhiên là ta có thể ghi chép lại ý tưởng nầy ngay khi nó phát khởi, song vì dòng tư tưởng thay đổi không ngừng nên chưa chắc là nó có ích lợi gì cho ta.
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật nầy, vì tất cả chúng ta ai cũng có thể chứng nghiệm được điều đó ngay bản thân. Tính phù du nầy là một thách đố cho cái nhìn của ta về bản ngã, khiến nó trở nên bớt cụ thể, nền tảng của nó bớt vững chắc, và như thế là ta phải đối mặt với một vấn đề trọng đại, đó là việc ta tự xem mình như một thực thể vững chắc, bất biến trong cái ta gọi là con người với những quan điểm, ý kiến cá nhân tạo thành một ‘bản ngã’. Cái nhìn của ta về bản thân, và ngã tưởng bị lung lay khi ta nhận ra rằng các quan điểm, ý tưởng và cảm nhận của mình, kỳ thật luôn đến và đi trong từng giây phút.
Càng ít chấp ngã thì ta càng dễ có hạnh phúc. Ta không nhất thiết phải đồng ý ngay với câu nầy, song cũng không có một lý do gì để phủ nhận nó ngay, bởi ta có thể tự kiểm nghiệm nó. Càng muốn chứng tỏ cho mọi người biết ta là một ‘ai đó’ với một số quan điểm, một hệ thống niềm tin riêng của mình và một cương vị đặc biệt thì ta lại càng phải bám chặt vào những thứ khiến chúng ta trở thành con người đó, cố gắng biến tất cả trở thành vững bền. Tuy nhiên, vì mọi sự luôn luôn sinh diệt đổi thay, nên chúng ta phải đối mặt với một nhiệm vụ gần như không thể thực hiện. Đây là lý do tại sao con người không có hạnh phúc.
Tất cả chúng ta đều ở trong tình trạng khó xử này. Một khi ta còn cố gắng để khẳng định mình, và bám víu vào người hay vật mà ta gắn bó, thì ta không thể có tự do và hạnh phúc. Bởi lẽ đó - cho dù ta đang bận rộn hoặc hoàn toàn rảnh rỗi - ta luôn cảm thấy bức xúc, cái mà ngày nay chúng ta gọi là căng thẳng thần kinh (stress). Kỳ thực thì nỗi bức xúc mà ta tự tạo cho mình, lúc nào cũng đã có mặt, vì nó hỗ trợ cho cái cảm nhận về ngã, và nhu cầu muốn tự khẳng định là lý do khiến nó phát sinh trước hết. Ta muốn tự nhủ rằng ta là những con người có thực thể và bền vững với những cá tính riêng biệt, nên ta thường nói những câu như “Xin lỗi tôi đến trễ, nhưng tính tôi quen vậy rồi” hoặc “Những phim buồn làm tôi phải khóc – tôi là vậy đó”.
Những câu nói như vậy không có nghĩa gì cả vì không có một vật thể hay cá tính nào mà không thể thay đổi được. Từng ý nghĩ, từng cảm giác đến rồi đi. Ta chỉ cần nghĩ lại xem các ý nghĩ hay cảm giác mình đã có trong ngày hôm nay có còn ở với ta hay không. Khi nhìn lại, ta thấy là những ý nghĩ ta vừa có cách đây vài phút đã biến mất hẳn rồi. Thật ra không có gì - kể cả cuộc đời ta- mà ta có thể cầm chắc trong tay. Mặc dù ta già đi trong từng phút giây, nhưng vẫn có nhiều người không thể chấp nhận được điều nầy. Tệ hơn nữa, họ còn không biết là họ không thể chấp nhận được sự thực đó. Ta giữ mãi những ký ức về chính mình đến nỗi ta không thể để ý thấy là mình đang già đi, và tất cả những ký ức ta có về mình tạo thành một cái ta ảo tưởng. Bằng cách này chúng ta đã tạo dựng cho mình một ý niệm càng vững chắc hơn về bản ngã.
Những bằng chứng phủ nhận cách suy nghĩ của ta về thực tại cuộc sống có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi. Giả thử như trời đang mưa: mỗi giọt nước rơi xuống và thấm vào lòng đất rồi biến mất hẳn. Ta cũng thế. Ta cũng như những giọt mưa, nhưng ta muốn quên đi định luật về sinh và diệt nầy.
Ta không bắt buộc phải tin những điều đức Phật thuyết, song ít nhất ta cũng không quay lưng với Ngài và đồng ý kiểm nghiệm sự thật của định luật này. Luôn ghi nhớ đến nó trong tâm để có thể thấu triệt nó và đạt được an lạc, hạnh phúc là một nỗ lực lớn. Chúng ta có thể đạt được niềm an lạc trong thiền định, nhưng cái hạnh phúc nội tại mà mỗi chúng ta luôn cố gắng kiếm tìm phải đến từ trí tuệ. Trí tuệ có thể phát khởi qua cuộc sống thiền và tỉnh thức, nhưng ngay cả thiền định cũng vô thường: ngay khi ta vừa rời khỏi chiếu thiền thì trạng thái thiền định dễ chịu cũng đã biến mất.
Trước khi giác ngộ, đức Phật đã là một thiền giả tinh tấn. Ngài rất tinh thông tám tầng thiền định và qua đó chứng nghiệm được cảm giác khinh an, hạnh phúc, thanh tịnh vô biên. Tuy nhiên, sau khi đạt được những cảm giác an lạc đó Ngài lại cảm thấy bất như ý vì muốn giữ lại những lạc thọ đó. Vì thế, Ngài muốn giữ vững tâm trí của mình như thế nào để cho hoàn cảnh bên ngoài không thể quấy nhiễu mình nữa. Nói tóm lại, con đường tâm linh phải là con đường làm phát triển hạnh phúc nội tâm của ta cho đến khi nó trở thành hoàn toàn độc lập và không còn bị chi phối bởi những hoàn cảnh bên ngoài.
Con đường còn dài trước mắt. Tuy nhiên cuộc hành trình dài nhất cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Còn nhiều bước chân phải đi, nhưng tiên quyết là bước đầu tiên, mà ở đây là tâm thực tập quán tưởng về vô thường. Ta không chỉ quan tâm về tính vô thường của những của cải vật chất. (Ở những xã hội dư thừa, ít ai bận tâm đến điều này; khi vật dụng bị hư gãy, họ mua ngay cái khác). Chúng ta cũng phải quán về sự vô thường của bản thân. Ta có thể thực tập điều nầy bằng cách quán về các uẩn - sắc, thọ, tưởng, hành, thức - và nhận diện sự sinh diệt của chúng. Ta phải nhận rõ sự lệ thuộc của mình vào các cảm nhận bên ngoài - như nếu nghe thấy điều gì trái tai có thể làm ta bực dọc cả ngày, hoặc nếu không được như ý thì ta sẽ cảm thấy thất vọng, bực tức. Chẳng có ai lại không muốn tránh các cảm giác khó chịu ấy, song nếu chỉ nghe những điều ta muốn nghe, thấy những gì ta muốn thấy, được những gì ta muốn được, thì mới có hạnh phúc thì thật là kỳ quặc, một việc làm hoàn toàn vô vọng. Phương cách hợp lý duy nhất để nhận diện và đối phó với vấn đề nầy là quán tưởng về sự vô thường của vạn vật.
Tất cả chúng ta đều có thể nhớ về thời thơ ấu của mình cùng với một số sự kiện trong giai đoạn đó. Dường như nó chỉ mới đây. Thế nhưng đã bao nhiêu nước chảy qua cầu. Và vì sao bây giờ ta phản ứng thật khác với hồi ấy? Ta muốn nghĩ rằng mình vẫn như xưa, nhưng không có gì trong ta còn nguyên vẹn. Tất cả các ý nghĩ, các cảm giác của ta đều đã thay đổi về bản chất, cùng với những thay đổi rõ ràng về diện mạo. Cho dù một số dấu vết của thời xa xưa vẫn còn trong ta, nhưng những gì tạo ra ta của thời đó đã hoàn toàn khác xa với cái tạo ra ta của ngày hôm nay.
Sự chuyển hóa này thực sự xảy ra từ ngày này qua ngày khác - nói chính xác hơn thì nó xảy ra trong từng giây phút. Ta không thể bám víu vào bất cứ cảm nhận nào của ta, và nếu ta cố gắng giữ lại một người hay sự việc nào đó chắc chắn ta sẽ bị thất vọng bởi đây là một việc không thể nào làm được. Sự thật đơn giản và chắc chắn là ta không thể níu giữ được đời mình, cũng như ý nghĩ và cảm nhận của mình; các xúc chạm giác quan của ta cũng thay đổi từng giây phút một. Ta có thể thành công đôi chút trong việc giữ lại bản thảo của ý nghĩ hay cảm nhận của mình qua sách vở hay băng ghi âm - song đó không phải là những ý nghĩ ban đầu của ta. Bạn có thể quán sát đời mình ngay bây giờ và thấy nó đang trôi qua như thế nào. Nếu biết cách nhìn, bạn sẽ dễ dàng làm được việc nầy. Khi quán sát đời mình trải ra trước mắt, bạn sẽ thấy nó không ngừng thay đổi.
Bản chất con người không thích nhìn thấy sự thay đổi và hoại diệt này, vì thế ta tạo ra thói quen: ta chủ tâm làm cùng một việc vào những giờ nhất định trong ngày. Càng có nhiều thói quen, chúng ta càng ảo tưởng về một sự cố định, một cái gì bền chắc, và kèm theo đó là sự đảm bảo an toàn trong việc thường xuyên lập lại chúng. Tuy nhiên, đây là một ước đoán hết sức bấp bênh, vì thói quen chỉ là thói quen, không thể nào thay thế cho một ‘cái tôi’ bền chắc độc lập. Ta tìm kiếm không ngừng các cảm giác vững chắc để phù hợp với cái khung mà chúng ta đã dựng lên qua các thói quen của mình. Tuy nhiên, bất cứ thứ gì mà chúng ta tìm được trong cái khung hạn hẹp đó, cũng không thể giúp ta tìm được thứ hạnh phúc mà ta hằng mong mỏi, là hạnh phúc nội tại không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.
Các yếu tố bên ngoài thường không ở trong tầm kiểm soát của ta. Thường thì chúng thình lình ập đến trước khi ta có thể trở tay. Tuy nhiên, chúng ta không thích chấp nhận sự thật đắng cay nầy. Chúng ta muốn làm chủ cuộc đời mình, cũng như hưởng một hạnh phúc nội tâm, độc lập với các hoàn cảnh bên ngoài, nhưng điều này thật vô vọng. Ta ở trong cùng một hoàn cảnh như anh chàng “Hans in Luck” trong câu chuyện cổ tích cùng tên của anh em nhà Grimm. Anh chàng này, sau nhiều năm phục vụ đắc lực được chủ thưởng cho một thỏi vàng và trên đường về thăm mẹ, anh ghé vào một nơi để đổi vàng lấy những thứ thực dụng hơn, rồi về đến nhà mang theo trong túi một thỏi khác: một hòn đá vô giá trị. Sau cùng, anh liệng hòn đá ấy đi và cảm thấy như thoát một gánh nặng lớn. Đó cũng là những điều xảy ra cho chúng ta trên cuộc hành trình tâm linh. Trong khi đi tìm kiếm một thứ không có trên đời nầy, giải pháp duy nhất là phải vứt bỏ đi những thứ ta vẫn luôn mang theo bên mình. Hòn đá mà chúng ta hằng mang, gánh nặng trên vai bấy lâu nay là ngã chấp, sự đồng hóa của ta với những gì mà ta coi là bền vững, bất biến, là cái mà ta gọi là ‘ngã’ hay ‘cái tôi’, đã hiển nhiên là sự ăn sâu, bám rễ của hành động và tư tưởng của ta vào một cái gì bền vững, mạch lạc. Nhưng các thành quả của ta sẽ kéo dài được bao lâu? Chúng chỉ hiện hữu trong quá khứ xa vời. Bây giờ ta chỉ sống với kết quả của các hành động ấy. Mọi việc chỉ đến rồi đi - không có gì trong sự hiện hữu của ta là lâu bền.
Thế giới, và ngay cả vũ trụ nầy, cũng chẳng bao giờ làm thỏa mãn được ước vọng sâu xa nhất của ta. Sự thỏa mãn không bao giờ đến từ bất cứ thứ gì ở bên ngoài - nó từ nội tâm ta. Đây là sự khác biệt chính yếu giữa đời sống tâm linh và cuộc sống đời thường: sự tự tại ở ngay trong ta. Khi ta ngưng tìm kiếm hạnh phúc ở thế giới bên ngoài để quay về nhìn sâu trong thiền định, ta sẽ khám phá ra là mình vốn sẵn có tất cả những điều kiện hạnh phúc mà xưa nay mình bôn ba kiếm tìm. Ta chỉ cần học cách chú tâm - một điều không khó như ta tưởng - và ta có đủ phương tiện để liên hệ với đời sống nội tâm bất cứ lúc nào. Vấn đề chỉ là ngồi xuống và thực tập hằng ngày. Giống như mỗi ngày ta nuôi dưỡng thân thế nào, thì ta cũng cần chăm sóc cho sức khỏe tinh thần của ta thế ấy. Không ai thắc mắc vì sao ta cần nuôi thân, tuy thế ta phải nhấn mạnh là mình cũng cần nuôi dưỡng tâm y hệt như thế. Khi ngồi thiền, tâm ngưng chú ý đến những gì xảy ra chung quanh. Nhờ đó, nó trở nên lắng đọng, kết quả là, các khía cạnh của những kinh nghiệm đã có sẵn trong ta ở một trạng thái thô sơ nay có cơ hội hiển bày. Thoạt tiên, ta có thể thấy thoải mái, yếu tố báo hiệu tầng thiền đầu tiên. Cảm giác dễ chịu nầy ai cũng có thể đạt được, song nó thường bị tư tưởng của ta che khuất, vì vậy ta cần phải ngưng dòng tư tưởng bằng cách tập trung tâm trí trong thiền quán. Nếu tiếp tục hành thiền như thế, sẽ có lúc ta nhận ra là tâm có thể ngừng suy nghĩ lăng xăng.
Khi ta đã có thể bước vào đời sống tâm linh bằng cách nầy, khi đã chứng nghiệm được tầng thiền thứ nhất, ta biết chắc chắn là thế giới nội tâm không thể nào thấy được ở ngoài ta mà chỉ có thể thấy qua thiền tập. Ta thấy rõ là có một con đường có thể đưa ta đến điều mà xưa nay ta vẫn đi tìm, điều mà thế giới bên ngoài không thể cho ta. Từ nay hạnh phúc của ta sẽ tùy thuộc vào các phản ứng của ta đối với mọi việc, bởi chúng luôn đến và đi, nhưng nằm ngay trong cái đến và đi ấy.
Nói một cách tổng quát, con người chúng ta luôn chìm đắm trong các phản ứng của mình đối với sự việc, và ta đôn đáo tìm khắp nơi cho một hoàn cảnh lý tưởng trong đó các phản ứng nầy sẽ được hoàn hảo theo ý mình. Song một khi đã kinh nghiệm được sự an lạc trong thiền, ta sẽ không mải mê tìm lạc thú cuộc đời nữa bởi ta biết -không mảy may nghi ngờ gì nữa - là chỉ cần hướng về nội tâm là ta sẽ tìm được những thứ mà ta vẫn thường tưởng chỉ có ở bên ngoài. Lúc đó ta sẽ sẵn sàng chú tâm hơn đến sự sinh diệt của các sự kiện, thay vì chỉ chú tâm đến các phản ứng của ta về chúng.
Khi bắt đầu thực tập, ta thường đánh mất chánh niệm về vô thường; mọi thứ khác dường như quan trọng hơn nhiều và sự vật không thay đổi gì nhiều. Phải cần nhiều cố gắng mới có thể hiểu đúng tính vô thường của vạn vật. Tâm cần được khuyến khích để chấp nhận nguyên lý nầy không chỉ về mặt tri thức -trên phương diện nầy chắc ta đủ sức hiểu rõ nó - mà còn về mặt tình cảm. Lúc ấy đột nhiên ta thấy mình nhìn sự vật như sự vật đang biến mất dần.
Khi ta thực sự cảm thấy là mọi vật luôn không ngừng thay đổi, ta sẽ không còn chống lại sự thật đó nữa. Khi thấy được mọi vật như chúng là, tức là vạn vật luôn thay đổi, ta không còn mơ ước chúng có thể khác bản chất của chúng. Ta cũng sẽ mất cái cảm giác bực tức khi gặp phải những điều bất như ý hay không muốn trải qua, và cảm giác hối hận hay luyến ái đối với những gì ta muốn kinh qua. Lúc đó, khi những xung đột nội tâm dừng lại, ta sẽ ngưng không đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài, và nhận thức rõ ràng là ta đã là chủ của kho báu mà ta kiếm tìm.
Có rất nhiều những câu chuyện cổ tích từ nhiều truyền thống văn hóa khác nhau về một người đi tìm vàng, đôn đáo khắp nơi để tìm đúng chỗ đào vàng. Sau cùng người ấy được một nhà hiền triết dạy rằng -thể theo cổ tích Do Thái – ‘Con hãy về nhà, kho tàng ở ngay dưới bàn trong bếp nhà con.’ Người ấy về nhà và sửa soạn đào dưới bàn ăn trong bếp song chợt hiểu ra rằng: ‘Báu vật ấy ở ngay trong tâm ta, có đâu ở dưới cái bàn nầy! Ta chỉ cần ngồi ung dung để chân dưới bàn là kiếm được nó ngay’. Ta ruổi rong tìm kiếm khắp nơi, có ngờ đâu bảo vật ở ngay nơi mình.
Tất nhiên đây là điều mà mỗi chúng ta sẽ phải tự tìm ra cho mình. Chỉ muốn khám phá ra những kho tàng tâm linh thôi không đủ; ta phải thực sự bắt tay vào việc. Nếu ta vẫn sống theo các thói quen cũ và không cố gắng gì để thay đổi, ta vẫn tùy thuộc vào con người cũ của mình, vẫn đồng hóa với những phản ứng nhất thời của mình đối với sự việc.
Một điều mà đức Phật đã dạy là nếu chúng ta có thể đạt được sự nhận thức rõ ràng, sâu sắc về sự đến và đi của năm uẩn, thì chúng ta có thể tự quan sát bản thân cũng như thế - như một chuỗi nhân và quả liên tục. Khi đã hiểu mình như những hiện tượng nhân quả, cái ngã sẽ chấm dứt, vì chúng ta là nhân mà cũng là quả và cả hai đều có gốc rễ trong sự chấp ngã không dừng dứt của ta.
Nếu, trong lúc thiền tọa, ta cảm nhận rõ ràng được sự đến và đi của các uẩn qua từng giây phút, không dừng dứt, ngay lúc đó, trở lại quán tưởng về vô thường, ta sẽ vào được cõi vô diệt. Đây là lời hứa của đức Phật.
Câu cuối cùng của đoạn kinh nói: ‘Người mà biết gọi đó là cõi vô diệt’. Thay vì cụm từ ‘người mà biết’ ta có thể nói ‘người trí tuệ’. Xét cho cùng, chỉ biết thôi chưa đủ, ta phải đưa cái biết đó vào thực hành. Hiểu biết về một điều gì đó và có thể thực hành nó là hai điều hoàn toàn khác nhau. Nói là mọi vật đều vô thường thì chẳng có gì là mới mẻ cả - biết vô thường không thành vấn đề đối với chúng ta. Nhưng để là đòi hỏi trí tuệ hiện hữu - phải thực sự là cái ta biết. Đây là điểm khác biệt chính yếu giữa nhà học giả và hành giả. Nhà học giả biết tất cả mọi thứ về vô thường, song chỉ có hành giả là kẻ sẽ có ngày đạt được nó. ‘Người mà biết’ do đó là người trí tuệ và điều mà người trí tuệ biết là ‘cõi vô diệt’, một từ đồng nghĩa với niết bàn.
Niết bàn là một ý niệm khó hiểu và khó thể được diễn tả chính xác. Thí dụ ta có thể cho nó là sự thể hiện của thượng đế ở trong ta - không phải là một thượng đế dưới hình dạng nào, nhưng là một nền tảng căn bản cho tất cả những gì đang hiện hữu. Điều đó, ta có thể gọi, là niết bàn. Điều đáng tiếc là ý nghĩa của từ ‘thượng đế’ quá phức tạp nên mỗi người sẽ nghĩ về một thứ khác nhau khi nói đến từ này - do đó nó không còn ý nghĩa gì mấy. Cũng thế, có rất nhiều sự ngộ nhận về từ ‘niết bàn’.
Tốt nhất là ta nên tránh tạo những khái niệm liên hệ với từ ‘niết bàn’. Tuy nhiên, tôi muốn đưa ra vài khái niệm về ý nghĩa của nó để người đọc có thể hiểu cụm từ ‘cõi vô diệt’ (deathless realm) muốn diễn tả gì. ‘Vô diệt’ có nghĩa là không có gì tịch diệt -nhưng trước khi có vô diệt thì phải có vô sinh. Căn bản rốt ráo của mọi hiện hữu không có sinh cũng không có diệt.
Để chứng ngộ được sự thật nầy, ta phải tiếp cận nó một cách hết sức từ tốn. Nó không liên hệ gì đến niềm tin vào một thực tại bên ngoài, những nghi thức bên ngoài, hay những ảnh hưởng bên ngoài nào đối với ta. Nếu ta tương đối may mắn sống ở một nơi thoải mái, có đủ ăn, đủ mặc,có nơi tránh gió mưa bão táp, có thuốc men khi ốm đau, ta đã có đủ mọi thứ ta cần từ thế giới bên ngoài. Tất cả chúng ta đều có thể chứng ngộ sự thật tối thượng vì nó ở ngay trong ta. Từ trong tiềm thức, ta biết rằng đây chính là điều mà ta hằng tìm kiếm, nhưng người ta chẳng bao giờ bàn về điều nầy và cũng không muốn tự thú nhận điều đó. Sự thật này không nhất thiết phải có một cái tên, dù đó là ‘niết bàn’, ‘cõi vô diệt’ hay là ‘thượng đế’. Có một thực tại ở đó ta có thể tìm được sự nghỉ ngơi, an tịnh, nhưng ta chỉ có thể tìm được nó trong nội tâm ta. Tiếng nói của nội tâm cũng cho ta lời khuyên. Vậy mà ta mãi kiếm tìm ở những chỗ đâu đâu.
Trạng thái nghỉ ngơi này là gì? Có phải là khi ta về hưu? Hầu hết những người về hưu không nghỉ ngơi mà trái lại còn bận rộn hơn bao giờ hết, nếu không họ sẽ thấy buồn chán. Nghỉ ngơi của đời thường chỉ có nghĩa là thay đổi công việc làm chúng ta bận rộn. Tìm được sự nghỉ ngơi nghĩa là tìm được bản chất của ta, căn bản của hiện hữu, và chứng ngộ nó. Căn bản nầy có mặt ở trong mỗi chúng ta. Nó đem ta vào đời, giữ ta sinh tồn và đem ta về cõi chết. Chứng ngộ nó có nghĩa là buông xả hết tất cả những bám víu, mong cầu được hiện hữu, hay được là ‘một ai đó’. Do đó, chỉ khi nào chúng ta thôi không bám víu, khát khao hiện hữu và khẳng định bản ngã, thì ta mới thực sự tìm được sự nghỉ ngơi. Ở đây không nói là ta phải khinh rẻ hoặc ruồng bỏ bản thân - vì điều này cũng tệ chẳng khác sự luyến ái cái ngã. Mà đúng ra là, qua thiền định ta sẽ dần nhận ra sự hình thành của bản ngã như thế nào bên trong ta.
Ngay khi chúng ta có thể ngưng các vọng niệm, ta sẽ có cơ hội để cảm nghiệm một tầng thức mới của cuộc sống nội tại - có nghĩa là cuộc sống nội tại mà chúng ta đang theo đuổi là một chứng nghiệm sống chứ không phải là một quá trình tư duy. Việc ngưng các vọng niệm là bước đầu tiên, chỉ cho ta nơi đâu để tìm ra được sự thật sâu xa hơn. Đồng thời ta cũng có thể chuẩn bị cho sự chứng nghiệm đó bằng cách hướng dẫn tư tưởng của ta đến sự thật là tất cả những gì đang xảy ra cho ta và quanh ta đều vô thường. Bằng cách kiên trì tự nhủ mình như vậy, dần dà ta có thể cảm nghiệm được sự đến và đi của mọi việc.
Để nhớ những gì ta biết thì cũng đơn giản thôi. Nhưng làm chủ được nó có nghĩa là ta phải kinh qua những gì ta biết, thì không đơn giản như thế - dù là trên đời luôn có một số người có khả năng siêu việt này. Ta không cần phải chuyên tâm vào một niềm tin, một tôn giáo, triết lý hay tâm lý nào, ta chỉ cần để ý chính mình thôi. Có gì đơn giản hơn thế phải không? Tưởng là như vậy song thực ra đây lại là một điều rất khó làm. Còn gì thú vị hơn là tự quan sát mình phải không? Nhưng phần đông đều thích dòm ngó người khác. Nếu ta xem những gì ta quán sát được như đang xem một cuốn phim thì việc quan sát chính mình chắc chắn là một cuốn phim đáng xem hơn là lấy máy ảnh ghi lại những sự kiện bên ngoài một cách không ý thức.
Như vậy ta đã có lời hứa khả của đức Phật là ta sẽ đạt được hạnh phúc nội tâm, bất kể hoàn cảnh bên ngoài. Ta cũng có những quy luật riêng cho con đường ta phải theo để tự chứng nghiệm được hạnh phúc đó. Sự lợi ích và quan trọng vô cùng của giáo lý của đức Phật không chỉ nằm trong những lời hứa, mà còn ở chỗ nó chỉ cho ta cách chứng nghiệm sự thật và những gì ta có thể chờ đợi trên con đường tu tập.