Lời nói đầu
PHẦN NGHI THỨC DẪN NHẬP
1. Nguyện hương
2. Tán Phật và đảnh lễ Tam bảo
3. Tán hương
4. Phát nguyện trì kinh
5. Tán dương giáo pháp
PHẦN CHÁNH KINH
6. Lạy sám hối sáu căn
7. Lạy sám hối hồng danh
PHẦN SÁM NGUYỆN VÀ HỒI HƯỚNG
8. Bát nhã tâm kinh
9. Niệm Phật A-di-đà và thánh chúng
10a. Sám nguyện
10b. Sám quy nguyện
11. Hồi hướng công đức
12. Lời nguyện cuối
13. Đảnh lễ Ba ngôi báu
1. ĐÔI ĐIỀU VỀ NGHI THỨC
Nghi Thức Sám Hối này được biên tập hoàn tất vào năm1998 và được hiệu đính có bổ sung vào năm 2002. Toàn bộ nghi thức gồm ba phần: Phần dẫn nhập, phần chánh kinh và phần sám nguyện.
Phần dẫn nhập và phần sám nguyện được biên tập ngắn gọn, như các Nghi Thức Sám Hối đã được xuất bản trong và ngoài nước từ trước đến giờ. Hai bài sám nguyện và kệ sám hối được
trích từ Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn của Làng Mai.
Phần chánh kinh gồm có hai nghi: Lạy Sám Hối Sáu Căn của vua Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục và Lạy Sám Hối Hồng Danh (Hồng Danh Bửu Sám). Phần đảnh lễ hồng danh của mười tám vị Phật và Bồ-tát trong phần Lạy Sám Hối Sáu Căn do chúng tôi biên soạn, dung hòa tinh thần Phật giáo Nam tông và Bắc tông, với sự có mặt của các đức Phật quá khứ, Phật vị lai, Phật Thích-ca, năm vị Bồ-tát quen thuộc của Phật giáo Đại thừa và mười vị cao đệ của Phật Thích-ca như những vị “Bồ-tát” lịch sử. Phần sám văn của hai nghi thức do cư sĩ Thành Tâm - Phan Khắc
Nhượng và chúng tôi hợp dịch theo thể thơ song thất lục bát.
Hai nghi này có thể được thay thế cho nhau trong hai kỳ sám hối định kỳ của mỗi tháng. Có thể mặc ước nghi thức Lễ Sám Hối Sáu Căn sử dụng vào ngày 14 AL và nghi thức Lễ Sám Hối Hồng Danh sử dụng vào ngày trước ngày cuối tháng (tháng đủ thì sám hối ngày 29, tháng thiếu sám hối ngày 28 AL) hoặc ngược lại. Trong trường hợp không có nhiều thời giờ, hành giả có thể “phối hợp” phần đảnh lễ hồng danh của mười tám vị Phật và Bồ-tát trong nghi thức Lễ Sám Hối Sáu Căn và phần sám văn của nghi thức Lễ Sám Hối Hồng Danh để có một nghi thức ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ ý nghĩa và trang nghiêm.
2. Ý NGHĨA CỦA SÁM HỐI
Sai lầm và tội lỗi thường được quan niệm như những thuộc tính của con người, nói đúng là người phàm. Chúng là những thực tại tâm lý đạo đức, biểu hiện dưới hai dạng thức tiềm ẩn và cụ thể. Biểu hiện tiềm ẩn của tội là những động cơ sai trái, những tâm lý hay những ý niệm bất thiện, đặt nền tảng trên các thái độ tham lam, sân hận và si mê. Biểu hiện cụ thể của tội là những hành vi thể hiện qua lời nói, văn tự hoặc bằng thân tạo tác, có khuynh hướng đem lại kết quả bất hạnh và đau khổ cho mình và người, ở hiện tại và tương lai.
Nguyên nhân của tội lỗi, theo đạo Phật không có nguồn gốc từ “tổ tông”. Trong nhiều trường hợp, nó không phải là những khiếm khuyết về luân lý truyền thống, lại càng không thuộc về
tương quan giữa con người với Thượng đế, hay những hành vi “đối thần” như các tôn giáo hữu thần đã chủ trương. Tội lỗi mang ý nghĩa đạo đức rất lớn, bắt nguồn từ những khuynh hướng xấu như vô minh, tham ái và sự sa ngã có ý thức của con người trước những cám dỗ của cuộc đời.
Trên nền tảng của nguyên lý tương tác và tương duyên trong mọi sự vật, đạo Phật cho rằng tội do chính con người tạo ra, trước nhất bằng tâm ý bất chính và sau là những hành vi gây đau khổ cho mình và tha nhân. Do đó, tội có thể được chuyển hóa bằng chính những tâm ý và hành vi chân chánh và thiện ích của con người. Dưới ánh sáng duyên khởi này, không có cái gọi là “định mệnh” như hậu quả của những tội lỗi mà con người được tạo ra trong chuỗi đời sống quá khứ. Tội lỗi do con người tạo ra thì cũng chính con người chuyển hóa bằng thái độ và lập trường “bỏ dữ làm lành.”
Sám hối là cách thức giúp cho con người lầm lỗi chuyển hóa các hành vi đạo đức, canh tân đời sống tâm linh và làm mới lại cuộc đời. Để sám hối, trước nhất con người cần phải ý thức về tội lỗi của mình đã gây ra, như dấu chỉ của một “lương tâm biết hồi đầu,” kế đến là nhận thức rõ các nguyên nhân sâu xa gây ra chúng, và sau cùng là chân thành ăn năn, quyết tâm sửa đổi và không để tái phạm trong tương lai.
Khi năm vóc sát đất phủ phục trước ảnh tượng Phật và Bồ-tát, chúng ta phải thành tâm, phát nguyện tịnh hóa tâm hồn và hành vi đạo đức của mình. Sám hối, do vậy, không phải là xưng tội trước Phật và Bồ-tát để được các Ngài tha tội, mà là biểu tỏ thái độ hồi đầu bằng cách làm các việc thiện không mệt mỏi, để “tự rửa tội.” Các động cơ và hành vi thiện ích sẽ là các đối lực mãnh liệt để triệt tiêu các hành vi tội lỗi trong quá khứ; nhờ đó, con người được thanh tịnh, hiền thiện và thánh hóa ở hiện tại và tương lai.
Nếu phàm làm người không ai có thể tránh khỏi tội lỗi và sai lầm thì sám hối là mạch máu không thể thiếu cho sự sống đạo đức của bản thân, cộng đồng và xã hội.
Mong sao nghi thức này có thể giúp ích cho những người con Phật trong quá trình “làm mới” lại đời sống đạo đức và tâm linh của chính mình, “tái tạo” hạnh phúc từ khổ đau, “chuyển hóa” phàm tình thành thánh trí và “tiếp nhận” Niết-bàn từ phiền não, để mỗi người là một “Tịnh Độ” nơi cõi Ta-bà, bây giờ và tại đây!
Giác Ngộ, rằm tháng 1 năm 2003
Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
Kính bút
1. NGUYỆN HƯƠNG
(Chủ lễ quỳ ngay thẳng, dâng ba nén hương lên ngang trán và xướng bài Nguyện Hương. Đại chúng cùng chắp tay thành kính mặc niệm và quán tưởng theo lời nguyện)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.O
Nhang trầm thơm ngát cả rừng thiền,
Vườn tuệ chiên-đàn nguyện kết nên,
Đao giới vót thành hình núi thẳm,
Lư lòng thắp sáng nguyện dâng lên. O
Chúng con ở đạo tràng . . . . . . . cung kính quỳ trước điện Phật, tán dương công đức bậc thầy ba cõi, đảnh lễ hồng danh chư Phật ba đời, chí thành cầu xin sám hối tất cả tội lỗi, cố ý hay vô ý, đã tạo ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại. O
Chúng con nguyện cho chánh pháp được lan truyền khắp chốn; lời Phật dạy được phổ biến muôn nơi; người người từ bỏ tham giận, si mê; tưới tẩm từ bi, hạnh phúc; làm lành lánh dữ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau; thế giới dứt nghiệp binh đao; muôn loài an vui giải thoát. O
Lại nguyện đời đời kiếp kiếp thường làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, hộ trì Tam bảo ở mãi thế gian, sống trọn đời trong an vui, tự tại. Từ nay, sạch hết não phiền, thoát vòng mê muội. Nguyện cùng pháp giới chúng sanh đều chứng thành quả Phật. O
Nam-mô Hương Cúng Dường Bồ-tát Ma-ha-tát. (ba lần) OOO
(Chủ lễ xá 3 xá rồi cắm nhang vào lư hương)
***
2. TÁN PHẬT VÀ ĐẢNH LỄ TAM BẢO
(Đại chúng đứng chắp tay, hướng về Phật, cùng tụng)
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Nay con nguyện quy y,
Diệt trừ vô lượng tội,
Dâng lên lời tán thán,
Ức kiếp vẫn không cùng. (1 xá) O
Phật là đấng giác ngộ mình
Độ người thoát khỏi tử sinh bao đời
Từ bi, trí tuệ rạng ngời
Là thầy ba cõi trời người xưa nay. O
Chí tâm đảnh lễ tất cả Đức Phật ba đời
thường trú trong mười phương. (1 lạy) O
Pháp là phương thuốc diệu thay,
Chữa lành bệnh khổ bao loài chúng sinh,
Như vầng trăng sáng lung linh,
Soi đường ra khỏi u minh mê mờ.
Chí tâm đảnh lễ tất cả Tôn Pháp ba đời thường trú trong mười phương. (1 lạy) O
Tăng là những bậc chân tu,
Biết đời huyễn mộng, giã từ ra đi,
Thấm nhuần trí tuệ, từ bi,
Độ đời thoát khỏi tham . . . si khổ sầu.
Chí tâm đảnh lễ tất cả Hiền Thánh Tăng ba đời thường trú trong mười phương. (1 lạy) OOO
***
3. TÁN HƯƠNG
Lò hương vừa bén chiên đàn
Tỏa xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu cát tường
Xin Phật chứng giám tâm hương chí thành
Pháp thân các Phật tịnh thanh
Chứng minh hương nguyện, phước lành rưới ban.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát. (3 lần) OOO
***
4. PHÁT NGUYỆN TRÌ KINH
Lạy đấng Thầy ba cõi,
Quy mạng Phật mười phương.
Con nay phát nguyện lớn,
Thọ trì hồng danh Phật,
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Nguyện cho người thấy nghe
Đều phát tâm bồ-đề,
Sống an vui giải thoát. O
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần) OOO
***
5. TÁN DƯƠNG GIÁO PHÁP
Pháp Phật cao siêu, lý rộng sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Nay con gặp được xin trì tụng,
Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu.
Nam-mô Khai Pháp Tạng Bồ-tát. (3 lần) OOO
***
6. LẠY SÁM HỐI SÁU CĂN
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài,
Tướng Phật trang nghiêm, hào quang tỏa,
Chúng con kính lễ, hướng tâm về. O
(Chủ lễ xướng lạy trước, sau đó đại chúng đồng xướng lạy)
Nam-mô Quá Khứ Nhất Thiết Phật. O
Nam-mô Vị Lai Nhất Thiết Phật. O
Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật O
Nam-mô Đại Trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.O
Nam-mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. O
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát. O
Nam-mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ-tát.O
Nam-mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát. O
Nam-mô Đại Ca-diếp Bồ-tát. O
Nam-mô Xá-lợi-phất Bồ-tát. O
Nam-mô Mục-kiền-liên Bồ-tát. O
Nam-mô A-nan-đa Bồ-tát. O
Nam-mô Tu-bồ-đề Bồ-tát. O
Nam-mô Phú-lâu-na Bồ-tát. O
Nam-mô Ca-chiên-diên Bồ-tát. O
Nam-mô A-na-luật Bồ-tát. O
Nam-mô Ưu-ba-li Bồ-tát. O
Nam-mô La-hầu-la Bồ-tát. O
Từ vô thủy đến nay muôn kiếp,
Quên bản tâm, đâu biết đạo mầu.
Ba đường khổ ải sa vào,
Sáu căn lầm lạc nhân sâu bao đời.
Nay con nguyện làm vơi tội lỗi
Để tránh điều thống hối về sau,
Xét soi nhân quả đuôi đầu,
Chúng con xin nguyện trồng sâu căn lành. O
***
SÁM HỐI NGHIỆP CỦA MẮT
Lầm hoa giả mà quên trăng thật,
Yêu ghét rồi xấu đẹp cạnh tranh,
Xa đường chánh kiến lầm mình,
Phân chia vàng đỏ, trắng xanh mê mờ.
Mắt nhìn lệch khác gì như quáng,
Gặp vẻ xinh duyên dáng trộm nhìn,
Chưa mù mà mắt không tinh,
Chẳng hay ‘mặt thật’ của mình ra sao.
Gặp kẻ giàu, tranh nhau nhướng mắt,
Thấy người nghèo muốn khuất cho xong,
Người dưng chết chóc ngoài lòng,
Bà con tạ thế, lệ dòng khóc than.
Đến Tam bảo, Già Lam, chùa tháp,
Thấy tượng, kinh chẳng chút đoái hoài,
Tại chùa lại đoái gái trai,
Mải mê liếc mắt đưa mày sắc dâm.
Chẳng nể sợ Long Thần, Hộ Pháp,
Làm ố hoen cửa Phật trang nghiêm,
Tội này vô lượng vô biên,
Phát sinh từ cửa mắt nhìn mà ra.
Nghiệp ác này phải sa địa ngục,
Bao kiếp dài mới được làm người,
Làm người lại bị mắt đui,
Nếu không sám hối hẳn thời khó xong.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy Ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn. O
***
SÁM HỐI TỘI CỦA TAI
Thích lời tà, ghét nghe chánh pháp,
Gốc “thật” quên, mải miết theo ngoài,
Sáo đàn inh ỏi khoái tai,
Mõ chuông tu niệm tưởng loài ếch kêu.
Câu vè ví ham vui để dạ,
Lời kinh cùng tiếng kệ ngoài tai,
Lời dua nịnh lại vui vầy,
Những lời “ngọt mật” khen hay mong cầu.
Nghe lời phải đã nào tin nhận,
Ba chén vào đôi bạn gái trai,
Châu đầu áp má kề tai,
Ba điều bốn chuyện dông dài dễ quen.
Lời thầy dạy chẳng thèm nghe tới,
Lời bạn hiền khuyên chói cả tai,
Hiếu trung lễ nghĩa gác ngoài,
Chạy theo tiếng ái, vui vầy giai nhân.
Lời kinh kệ chẳng màng, chẳng thích,
Tội như vầy chứa chất vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Hết đời, đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sinh tiếp,
Sinh làm người bị điếc hai tai,
Dốc lòng sám hối từ nay,
Lạy Ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn. O
***
SÁM HỐI TỘI CỦA MŨI
Về mùi lạ, mũi tham trăm thứ,
Chẳng kể gì hương tuệ sạch trong,
Thích tìm sạ ướp, lan xông,
Mùi hương giới định, mũi không biết gì.
Trước bàn Phật mỗi khi nhang đốt,
Khói quyện quanh phảng phất hương trầm;
Trộm hương phẩy khói hít thầm,
Long thần há nể, quỷ thần xem khinh.
Mùi son phấn hồng nhan luyến chặt,
Chẳng đoái hoài cây giác hoa tâm,
Chợ xa rồi lại bếp gần,
Của ngon vật lạ chẳng cần sạch dơ.
Chẳng kể chi mùi như thịt cá,
Dù tanh hôi dùng cả, chẳng tha,
Đàm vàng nước mũi chảy ra,
Dơ thềm bẩn đất, lê la say nằm.
Chốn cửa Phật phòng tăng chẳng kể,
Mùi nặc nồng hơi thở mà kinh,
Ngửi sen ý trộm khởi sinh,
Nghe mùi má phấn tư tình phát ra.
Nào hay đó đều là nghiệp mũi,
Những thứ này tội lỗi vô biên,
Dẫy đầy một khối trần duyên,
Chết rồi đường ác phải liền đọa sa.
Trả hết nghiệp rồi đi sinh tiếp,
Làm thân người bệnh nghiệp khổ thay,
Dốc lòng sám hối từ nay,
Con xin quỳ trước Phật đài ăn năn. O
***
SÁM HỐI TỘI CỦA LƯỠI
Tham mọi vị mà mình ưa thích,
Chẳng kể gì xấu tốt, dở ngon,
Nếm vào thứ béo, thứ còm,
Sát sinh hại vật chỉ dồn nuôi thân.
Gà, vịt, cá, chim… hầm cho kỹ,
Lại thêm vô ngũ vị tỏi hành…
Kể gì mùi vị hôi tanh,
Miễn sao khoái khẩu là sinh lưỡi thèm.
Nay chưa đã, mai tìm ăn nữa,
Gặp phải kỳ đến bữa đàn chay,
Cầu thần lễ Phật lời hay,
Cố để bụng đói qua ngày cho xong.
Thức ăn chay lỏng lòng lạt miệng,
Khi phải ăn chẳng luyến, chẳng màng,
Như người bệnh phải vương mang,
Ăn không ngon miệng cốt dùng qua loa.
Thấy thịt cá lòng đà hoan hỷ,
Cơm rượu nồng bí tỉ vui vầy,
Gặp khi cưới gả đêm ngày,
Cùng là rượu thịt ma chay tiệc tùng.
Rồi sát sinh mà dùng lấy thịt,
Khiến trùng trùng tội nghiệp manh nha,
Lại ba tấc lưỡi như là:
Dệt thêu, đâm thọc, ác tà, dối gian.
Vô lễ với họ hàng, Tam bảo,
Mắng chửi người, ráo nạo mẹ cha,
Dèm pha, dè bỉu người ta,
Luận bàn kim cổ nào là khen chê.
Lỗi bản thân giấu che đây đó,
Khoe giàu sang, nghèo khó miệt khinh,
Tăng Ni xua đuổi, chẳng gần,
Kẻ ăn người ở, chửi inh cả ngày.
Lời dèm xỉa như bày thuốc độc,
Nịnh hót như cung bậc phím đàn,
Lấy điều sai quấy điểm trang,
Nói không thành có, oán than lạnh nồng.
Việc như vậy trùng trùng vô kể,
Như hà sa chẳng thể đếm cùng,
Chết sa địa ngục nấu nung,
Lưỡi môi cày kéo, nước đồng rót vô,
Quả báo ấy bao giờ mới hết,
Sanh làm người câm điếc suốt đời,
Nay con quỳ trước Phật đài,
Lạy Ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn. O
***
SÁM HỐI TỘI CỦA THÂN
Xét thân xác tinh cha, huyết mẹ,
Phối hợp nên nhờ thế thành hình,
Trăm hài năm tạng kết sinh,
Chấp cho là thật thân hình của ta.
Tự quên mất bỏ qua “thân pháp,”
Rồi dâm tà, trộm cướp, sát sanh,
Khiến cho ba nghiệp hoành hành,
Để rồi quả báo quẩn quanh luân hồi.
Nghiệp sát sinh nơi người tàn ác,
Chẳng lòng từ hạ sát chúng sinh,
Đâu hay sinh vật với mình,
Vốn cùng một thể, vốn sinh một nguồn.
Khi sát hại chẳng buồn thương tiếc,
Chỉ lợi mình mà giết chúng sinh,
Nào làm thuốc độc cho tinh,
Ngải bùa trù yểm gian manh rợn người.
Người còn hại, dễ thời thương vật,
Nào đốt rừng, săn thú, lấp khe,
Bẫy chim, bắt cá, hội hè,
Niệm vừa dấy nghĩ thấy nghe vui làm.
Mỗi hành động đều mang tội lỗi,
Phải siêng năng sám hối, xa lìa,
Cho hay trộm cắp nghiệp tà,
Của người nhìn thấy đã là nổi tham.
Vướng lòng tham việc làm chẳng ngại:
Móc túi rồi cạy cửa, cạy rương,
Đến nơi chùa tháp, thiền đường,
Lòng tham thấy của dễ thường bỏ qua.
Không chỉ cắp ngọc ngà châu báu,
Mới tạo thành tội báo nghiệp sinh.
Cho dù cọng cỏ cây kim,
Không cho mà lấy đều sinh nghiệp này.
Mê nhan sắc, tơ lòng bủa khắp,
Thích phấn son mắt đắm ái tình.
Quên đi hai chữ liêm trinh,
Chỉ vì tham dục, ngục hình khổ đau.
Lòng chung thủy bắt đầu vơi cạn,
Lén tư tình đụng chạm gái trai.
Nắm tay âu yếm kề vai,
Trèo tường khoét ngạch chỉ vì nghiệp dâm.
Tội lỗi ấy vô phương kể xiết,
Địa ngục sa muôn kiếp chẳng sanh,
Bao đời tội báo không cùng,
Gái nằm giường sắt, cột đồng trai ôm. O
***
SÁM HỐI TỘI CỦA Ý
Dòng suy nghĩ quẩn quanh không dứt,
Chấp tướng nên dính mắc tình trần,
Như tầm kia nhả tơ giăng,
Kết thành cái kén giam thân chính mình.
Như “thiêu thân” tự tìm vào lửa,
Khiến lửa hồng thiêu hủy xác thân,
U mê chưa tỉnh tâm thần,
Đảo điên vọng tưởng mê lầm mà ra.
Các nghiệp ấy chẳng qua ba độc,
Đó chính là tham dục, sân, si,
Mưu thần chước quỷ chi chi,
Tham bòn vơ vét từng ly từng đồng.
Một lời mười vẫn còn tham lấy,
Lòng như thùng không đáy đâu hay,
Bao giờ rót được cho đầy,
Rừng vàng biển bạc keo thì vẫn keo.
Dù có thấy kẻ nghèo đói khát,
Cũng không cho một cắc một đồng,
Gạo hư tiền mục mặc lòng,
Vốn người bủn xỉn đừng hòng cho ai.
Đói khổ mặc, chẳng hoài giúp đỡ,
Mất một đồng một chữ đã to,
Tiền trăm vào túi mặc dù,
Vẫn cho là ít bo bo chẳng dùng.
Chẳng cho ai một đồng một chữ,
Dẫu của tiền tích trữ đầy kho,
Ngày thì tính toán, đêm lo,
Lao tâm khổ trí vốn do nghiệp này.
Do nền tảng tham sân làm gốc,
Lửa giận hờn cao ngất tự thiêu,
Trợn tròng quắc mắt to điều,
Làm cho hòa khí tan theo lửa này.
Không riêng chỉ người đời kẻ tục,
Cả Tăng Ni lắm lúc vẫn còn,
Miệng tranh kinh luận hơn thua,
Giận chê sư trưởng, trách hờn mẹ cha.
Như cành úa cỏ khô vẫn thấy,
Hẳn có hồi lửa cháy tan thôi,
Nói ra chết vật hại người,
Từ bi không nghĩ, xa rời đạo tâm.
Mở miệng thì nói thần nói thánh,
Gặp duyên thì khó tránh ngu si.
Cửa “không” dù ở bao thì,
Vẫn còn chấp mắc, chỉ vì “cái ta.”
Như cây vốn sinh ra gốc lửa,
Lửa lại về thiêu hủy cả cây,
Những điều tội lỗi trên đây,
Đều do nóng giận nghiệp nầy mà ra.
Bởi căn tánh đọa sa mê muội,
Ý thức thành tăm tối chẳng ngay,
Dữ lành trên dưới nào hay,
Giết người hại vật chặt cây tan tành.
Mắng hiền thánh, rẻ khinh đức Phật,
Ngược nghĩa tình, quên đức quên ân,
Đã không suy xét xa gần,
Ngu si mê muội: Làm nhân đọa đày.
Nghiệp báo ác đã gây rất nặng,
Đến cuối đời dứt mạng ra đi,
Rơi vào địa ngục A-tỳ,
Trải muôn ngàn kiếp dễ gì đầu thai.
Khi tái sanh ngu si mê muội,
Nếu không lo sám hối tiêu trừ,
Khó mà dứt nghiệp ngu si,
Trăm ngàn vạn kiếp như mù khó thông.
Nay con nguyện một lòng sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay,
Thành tâm quỳ trước Phật đài,
Lạy Ba Ngôi Báu tỏ bày ăn năn.
Nam-mô Chứng Minh Sư Bồ-tát Ma-ha-tát. O
***
KỆ SÁM HỐI
Con đã gây ra bao lầm lỗi,
Khi nói, khi làm, khi tư duy,
Tham lam, hờn giận và ngu si,
Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri,
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới,
Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm,
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm,
Tâm tịnh còn đâu vết lỗi lầm.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm,
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong. (3 xá) OOO
Nam-mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát.O
***
7. LẠY SÁM HỐI HỒNG DANH
Đại từ đại bi thương chúng sinh,
Đại hỷ, đại xả cứu muôn loài,
Tướng Phật trang nghiêm, hào quang tỏa,
Chúng con kính lễ hướng tâm về. O
Nam-mô quy y Kim-Cang Thượng Sư:
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. O
Nay chúng con lòng thành phát nguyện,
Chẳng cầu mong được chuyện trần đời,
Không cầu phước báo trời người.
Thanh Văn, Duyên Giác hay nơi Quyền thừa.
Chỉ nương Tối thượng thừa tâm nguyện,
Mà phát tâm vô thượng trong lành,
Nguyện cầu tất cả chúng sanh,
Thảy đều thành đạo sáng danh Phật-đà. O
Nam-mô quy y thập phương tận
hư không giới nhất thiết chư Phật. O
Nam-mô quy y thập phương tận
hư không giới nhất thiết tôn Pháp. O
Nam-mô quy y thập phương tận hư
không giới nhất thiết Hiền Thánh Tăng. O
Nam-mô Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. O
Nam-mô Phổ Quang Phật. O
Nam-mô Phổ Minh Phật. O
Nam-mô Phổ Tịnh Phật. O
Nam-mô Đa-ma-la Bạt-chiên-đàn Hương Phật. O
Nam-mô Chiên-đàn Quang Phật. O
Nam-mô Ma-ni Tràng Phật. O
Nam-mô Hoan Hỷ Tạng Ma-ni Bảo Tích Phật. O
Nam-mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo
Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật. O
Nam-mô Ma-ni Tràng Đăng Quang Phật. O
Nam-mô Huệ Cự Chiếu Phật. O
Nam-mô Hải Đức Quang Minh Phật. O
Nam-mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật. O
Nam-mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật. O
Nam-mô Đại Bi Quang Phật. O
Nam-mô Từ Lực Vương Phật. O
Nam-mô Từ Tạng Phật. O
Nam-mô Chiên-đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật. O
Nam-mô Hiền Thiện Thủ Phật. O
Nam-mô Thiện Ý Phật. O
Nam-mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật. O
Nam-mô Kim Hoa Quang Phật. O
Nam-mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật. O
Nam-mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật. O
Nam-mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật. O
Nam-mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật. O
Nam-mô Bất Động Trí Quang Phật. O
Nam-mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật. O
Nam-mô Tài Quang Minh Phật. O
Nam-mô Trí Huệ Thắng Phật. O
Nam-mô Di-lặc Tiên Quang Phật. O
Nam-mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật. O
Nam-mô Thế Tịnh Quang Phật. O
Nam-mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật. O
Nam-mô Nhật Nguyệt Quang Phật. O
Nam-mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật. O
Nam-mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật. O
Nam-mô Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương Phật. O
Nam-mô Diệu Âm Thắng Phật. O
Nam-mô Thường Quang Tràng Phật. O
Nam-mô Quán Thế Đăng Phật. O
Nam-mô Huệ Oai Đăng Vương Phật. O
Nam-mô Pháp Thắng Vương Phật. O
Nam-mô Tu Di Quang Phật. O
Nam-mô Tu-ma-na Hoa Quang Phật. O
Nam-mô Ưu-đàm Bát-la Hoa Thù Thắng Vương Phật. O
Nam-mô Đại Huệ Lực Vương Phật. O
Nam-mô A-súc-tỳ Hoan Hỷ Quang Phật. O
Nam-mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật. O
Nam-mô Tài Quang Phật. O
Nam-mô Kim Hải Quang Phật. O
Nam-mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật. O
Nam-mô Đại Thông Quang Phật. O
Nam-mô Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật. O
Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật. O
Nam-mô Kim Cang Bất Hoại Phật. O
Nam-mô Bảo Quang Phật. O
Nam-mô Long Tôn Vương Phật. O
Nam-mô Tinh Tấn Quân Phật. O
Nam-mô Tinh Tấn Hỷ Phật. O
Nam-mô Bảo Hỏa Phật. O
Nam-mô Bảo Nguyệt Quang Phật. O
Nam-mô Hiện Vô Ngu Phật. O
Nam-mô Bảo Nguyệt Phật. O
Nam-mô Vô Cấu Phật. O
Nam-mô Ly Cấu Phật. O
Nam-mô Dõng Thí Phật. O
Nam-mô Thanh Tịnh Phật. O
Nam-mô Thanh Tịnh Thí Phật. O
Nam-mô Ta-lưu-na Phật. O
Nam-mô Thủy Thiên Phật. O
Nam-mô Kiên Đức Phật. O
Nam-mô Chiên-đàn Công Đức Phật. O
Nam-mô Vô Lượng Cúc Quang Phật. O
Nam-mô Quang Đức Phật. O
Nam-mô Vô Ưu Đức Phật. O
Nam-mô Na-la-diên Phật. O
Nam-mô Công Đức Hoa Phật. O
Nam-mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật. O
Nam-mô Tài Công Đức Phật. O
Nam-mô Đức Niệm Phật. O
Nam-mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật. O
Nam-mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật. O
Nam-mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật. O
Nam-mô Đấu Chiến Thắng Phật. O
Nam-mô Thiện Du Bộ Phật. O
Nam-mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật. O
Nam-mô Bảo Hoa Du Bộ Phật. O
Nam-mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta-la Thọ Vương Phật. O
Nam-mô Pháp Giới Tạng Thân A-di-đà Phật. O
Giữa thế giới gần xa các xứ,
Trước Phật đương cư trú tại trần,
Cúi xin các Phật Thế tôn,
Nhủ lòng thương xót chúng con đoái hoài.
Thương chúng sinh đời này đời trước,
Đã luân hồi bao lượt tử sinh,
Từ nơi vô thủy thành hình,
Đã từng lặn ngụp tội tình đến nay. O
Hoặc tội ác tự tay tạo tác,
Hoặc đã xui kẻ khác từng làm,
Hoặc nhìn việc ác không can,
Lại còn sinh dạ hân hoan đồng tình.
Những tội lỗi tự mình trộm cắp,
Của chùa chiền, bảo tháp, chư tăng,
Tự tay mình lấy, giả lầm,
Hoặc xui người lấy, vui thầm đứng xem. O
Phải năm tội đắm chìm vô gián,
Hoặc tự làm chuốc oán, gây oan,
Hoặc từng bảo kẻ khác làm,
Hoặc nhìn người khác hân hoan tỏ lòng. O
Trong mười điều ác hung vô đạo,
Hoặc tự tay gây tạo tham tàn,
Hoặc từng sai kẻ khác làm,
Hoặc nhìn việc ác không can còn mừng.O
Hoặc tự tạo hoặc cùng gây tội,
Hoặc tự mình nông nổi bao che,
Hoặc làm chẳng giấu giếm gì,
Đều sa địa ngục A-tỳ đáng kinh.
Làm ngạ quỷ súc sinh đau khổ,
Hoặc giam mình nẻo dữ không thôi,
Làm loài hèn hạ nhất đời,
Tội tình lầm lỗi bao thời gây ra.
Nay con nguyện thật thà sám hối,
Biết bao điều tội lỗi khôn dung,
Cúi xin các Phật Thế Tôn,
Chứng minh cho nỗi khốn cùng của con. O
Xin Đức Phật rủ lòng thương xót,
Nay con xin quỳ trước Phật-đà,
Phát tâm thệ nguyện thật thà,
Đời này, đời tới, gần xa làm lành.
Xin phát nguyện thực hành bố thí,
Giữ giới hầu tâm ý sạch trong,
Nắm cơm chén nước nhủ lòng,
Nguyện đem cho cả khắp cùng chúng sanh.O
Hoặc tự nguyện tu hành trong sạch,
Có bao nhiêu thành đạt căn lành,
Mọi điều huân tập đã thành,
Vô biên công đức nơi mình bao nhiêu.
Nay tất cả xin đều hồi hướng,
Về con đường Vô Thượng xưa nay.
Giống như quá khứ vị lai,
Các Phật hồi hướng tỏ bày đại bi. O
Chúng con nguyện quay về hồi hướng,
Sám hối cho tội chướng bao đời,
Phước lành tùy hỷ đời người,
Hướng về công đức nơi nơi Phật-đà.
Nguyện trí tuệ sâu xa vô thượng,
Phật qua rồi, hiện tại, vị lai,
Toàn năng, toàn thiện xưa nay,
Biển trời công đức đủ đầy vô biên. O
Nay con nguyện cúi mình kính lễ,
Sám hối điều tội lỗi bấy nay,
Cúi xin đức Phật Như Lai,
Sáng soi tâm trí con đây mê lầm.
Mười phương cõi xa gần bát ngát,
Phật ba đời cùng khắp không trung.
Bằng lời thân ý sạch trong,
Cúi đầu kính lễ một lòng tôn nghiêm. O
Nét oai phong Phổ Hiền hạnh nguyện,
Trước Như Lai thị hiện sức thần,
Một thân lại hiện muôn thân,
Hằng hà sa số ứng thân Phật-đà.
Hàng Bồ-tát nhiều như số cát,
Đến vô biên cõi pháp khắp cùng,
Đủ đầy tin tưởng thật lòng,
Tựa hồ tiếng sóng mênh mông biển dài.O
Lời diệu pháp đó đây bất tận,
Biết bao đời mới đặng cơ may,
Tán dương công đức Như Lai,
Như hoa vi diệu hương bay khắp cùng.
Nhạc réo rắc, hương xông, lọng phủ,
Dáng tuyệt trần đầy đủ trang nghiêm,
Cúng dường chư Phật tự nguyền,
Thức ăn hoa quả, dâng lên lòng thành. O
Đèn nhang thắp lung linh sáng tỏ,
Dáng tuyệt vời như vẻ Tu-di,
Cúng dường đức Phật Mâu-ni,
Chiếu soi quảng đại từ bi nhiệm mầu.
Phật ba đời trước sau tin tưởng,
Hạnh Phổ Hiền nguyện hướng không sai,
Cúng dường, sám hối Như Lai,
Cho tiêu tội lỗi đã gây bao đời. O
Tham, sân, si tự thời vô thỉ,
Miệng, ý, thân sinh khởi liền liền,
Nay con sám hối, lòng nguyền,
Mười phương chư Phật khắp miền sớm trưa.
Bậc Vô Học, Nhị Thừa, Duyên Giác,
Như Lai cùng Bồ-tát viên thông,
Bao nhiêu công đức tựu trung,
Mười phương đức Phật cùng chung hướng về. O
Phật thành tựu Bồ-đề Vô Thượng,
Nay con xin kính ngưỡng thỉnh cầu,
Cỗ xe chở pháp lăn mau,
Còn như Phật định tiêu dao Niết-bàn.
Chúng con nguyện hân hoan kính thỉnh,
Xin rủ lòng thương tưởng chúng sinh,
Hãy vì lợi lạc thế tình,
Chuyển vần xe pháp độ sinh Ta-bà. O
Nay kính lễ thật thà sám hối,
Công đức kia cùng với căn lành,
Thảy đều hồi hướng chúng sanh,
Nguyện thành như Phật, sáng danh đạo đời.
Đạo Vô Thượng không ngơi hồi hướng,
Phật, Pháp, Tăng tánh tướng khôn cùng,
Tục chơn tam-muội dung thông,
Nay xin hồi hướng khắp cùng nhân gian. O
Chúng sanh có những thân, miệng, ý,
Bởi mê lầm miệt thị rẻ khinh,
Gây bao nghiệp chướng tội tình,
Thảy đều bị cảnh đắm chìm tương lai.
Niệm niệm trí tròn đầy cõi pháp,
Chẳng chuyển lùi rộng khắp quần sanh.
Dù cho thế giới tan tành,
Hư không, phiền não chúng sanh không còn.
Bốn thệ nguyện vô cùng rộng lớn,
Nay con xin hồi hướng ra đây,
Kiếp này đến kiếp tương lai,
Nguyện thành Phật đạo tròn đầy “vô sanh.” O
Nam-mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. (3 lần) OOO
***
KỆ SÁM HỐI
Con đã gây ra bao lầm lỗi,
Khi nói, khi làm, khi tư duy,
Tham lam, hờn giận và ngu si,
Nay con cúi đầu xin sám hối.
Một lòng con cầu Phật chứng tri,
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới,
Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm,
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.
***
8. BÁT NHÃ TÂM KINH
Quán Tự Tại thực hành trí tuệ,
Bát-nhã ba-la-mật sáng ngời,
Bấy giờ Bồ-tát quán soi,
Thấy rằng năm uẩn ba đời đều không. O
Vượt tất cả các vòng khổ ách,
Hãy nghe này, Xá-lợi-phất ông!
Sắc nào có khác gì không,
Không nào khác sắc, sắc không vốn đồng. O
Cả thọ, tưởng, thức, hành cũng thế,
Tánh chân không các pháp viên thành.
Thảy đều chẳng diệt, chẳng sanh,
Chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng tăng giảm gì. O
Trong chân không chẳng hề có sắc,
Chẳng thọ, tưởng, hành, thức trong không.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân,
Sắc, thanh, vị, xúc, pháp, hương không còn. O
Không nhãn thức đến không ý thức,
Không vô minh hoặc hết-vô-minh,
Không điều già chết chúng sinh,
Hết già, hết chết thực tình cũng không.
Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm,
Tâm tịnh còn đâu vết lỗi lầm.
Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm,
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong. O
Nam-mô Cầu Sám Hối Bồ-tát Ma-ha-tát. O
Không trí tuệ cũng không chứng đắc,
Bởi có gì là chỗ đắc đâu.
Bấy lâu Bồ-tát dựa vào,
Trí ba-la-mật, thẳm sâu thực hành.
Mọi chướng ngại quanh mình tan biến,
Mọi việc đều chẳng khiến hoảng kinh,
Xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Niết-bàn rốt ráo, an nhiên thanh nhàn. O
Bát-nhã ấy rõ ràng trí tuệ,
Mà ba đời chư Phật nương vào,
Chứng thành quả giác tối cao,
Nên xem Bát-nhã thâm sâu đó là: O
Lời thần chú sâu xa bậc nhất,
Lời chú thần rất mực quang minh,
Chú thần cao cả anh linh,
Là lời thần chú thật tình cao siêu.
Trừ dứt được mọi điều đau khổ,
Đúng như vầy muôn thuở không sai.
Ngài liền tuyên nói chú này,
Để người trì niệm sáng bày chơn tâm: O
Ga-tê ga-tê pa-ra-ga-tê pa-ra-san-ga-tê bô-dhi sva-ha. (3 lần) OOO
****
9. NIỆM PHẬT A DI ĐÀ VÀ THÁNH CHÚNG
A-di-đà Phật sắc thân vàng,
Tướng tốt không gì thể sánh ngang.
Mắt biếc lắng trong trùm bốn biển,
Tu-di rực rỡ ngập hào quang.
Trong ánh quang minh vô số Phật,
Ứng thân Bồ-tát hiện vô vàn.
Bốn mươi tám nguyện vì sanh chúng,
Chín loại noi đường, bến giác sang. O
Nam-mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A-di-đà Phật. O
Nam-mô A-di-đà Phật (18 lần) O
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần) O
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần) O
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần) O
Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. (3 lần) OOO
***
10-A. SÁM NGUYỆN
(Hoặc đọc bài Sám Quy Nguyện ở mục 9B)
Đệ tử chúng con từ vô thỉ,
Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê,
Vào ra sinh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài vô thượng giác.
Biển trần khổ lâu đời trôi dạt,
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng.
Con hướng về theo ánh từ quang,
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đời ác trược,
Vì tham, sân, si, mạn gây nên.
Hôm nay đây khẩn thiết thệ nguyền,
Xin sám hối để lòng thanh thoát. O
Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt,
Từ bi vô lượng cứu quần sanh.
Con nhất tâm nguyện sống đời lành,
Đem thân mạng nương nhờ Tam bảo.
Lên thuyền từ vượt qua biển khổ,
Cầm đuốc thiền ra khỏi rừng mê.
Văn, Tư, Tu xin quyết hành trì,
Thân, miệng, ý noi theo chánh kiến.
Đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm,
Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm.
Mỗi khi tâm buồn giận lo phiền,
Nguyện nhiếp niệm trở về hơi thở.
Mỗi bước chân đi vào Tịnh độ,
Mỗi cái nhìn thấy được pháp thân. O
Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần,
Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ.
Tập khí năm xưa rồi chuyển hóa,
Vườn tâm tuệ giác nở trăm hoa.
Niềm an vui đem khắp mọi nhà,
Hạt giống tốt gieo về muôn lối.
Cùng tăng thân xin nguyền ở lại,
Nơi cõi đời làm việc độ sinh.
Giờ phút này Tam bảo chứng minh,
Giúp chúng con viên thành đại nguyện. (1 xá) OOO
***
10-B. SÁM QUY NGUYỆN
(Hoặc đọc bài Sám Nguyện ở mục 9A)
Trang nghiêm đài sen ngự tọa,
Đại hùng từ phụ Thích-ca.
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh,
Bàn tay chắp búp liên hoa.
Cung kính hướng về Điều Ngự,
Dâng lời sám nguyện thiết tha. O
Đệ tử phước duyên thiếu kém,
Sống trong thất niệm lâu dài,
Không được sớm gặp chánh pháp,
Bao nhiêu phiền lụy đã gây,
Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại,
Vô minh che lấp tháng ngày,
Vườn tâm gieo hạt giống xấu,
Tham, sân, tự ái dẫy đầy,
Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng,
Gây nên từ trước đến nay.
Những điều đã làm đã nói,
Thường gây đổ vỡ hàng ngày.
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng,
Nguyện xin sám hối từ đây. O
Đệ tử thấy mình nông nổi,
Con đường chánh niệm lãng xao.
Chất chứa vô minh, phiền não,
Tạo nên bao nỗi hận sầu.
Có lúc tâm tư buồn chán,
Mang đầy dằn vặt lo âu,
Vì không hiểu được kẻ khác,
Cho nên hờn giận, oán cừu.
Lý luận xong rồi trách móc,
Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau.
Chia cách hố kia càng rộng,
Có ngày không nói với nhau,
Cũng không muốn nhìn thấy mặt,
Gây nên nội kết dài lâu.
Nay con hướng về Tam bảo,
Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. O
Đệ tử biết trong tâm thức,
Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi,
Hạt giống thương yêu, hiểu biết,
Và bao hạt giống an vui.
Nhưng vì chưa biết tưới tẩm,
Hạt lành không mọc tốt tươi.
Cứ để khổ đau tràn lấp,
Làm cho đen tối cuộc đời.
Quen lối bỏ hình bắt bóng,
Đuổi theo hạnh phúc xa vời.
Tâm cứ bận về quá khứ,
Hoặc lo rong ruổi tương lai,
Quanh quẩn trong vòng buồn giận,
Xem thường bảo vật trong tay.
Giày đạp lên trên hạnh phúc,
Tháng năm sầu khổ miệt mài.
Giờ đây trầm xông Bảo Điện,
Con nguyện sám hối, đổi thay. O
Đệ tử tâm thành quy ngưỡng,
Hướng về các Phật mười phương,
Cùng với các vị Bồ-tát,
Thanh Văn, Duyên Giác, Thánh Hiền,
Chí thành cầu xin sám hối,
Bao nhiêu lầm lỡ triền miên.
Xin lấy cam lồ tịnh thủy,
Tưới lên dập tắt não phiền.
Xin lấy con thuyền chánh pháp,
Đưa con vượt nẻo oan khiên.
Xin nguyện sống đời tỉnh thức,
Học theo đạo lý chân truyền.
Thực tập nụ cười hơi thở,
Sống đời chánh niệm tinh chuyên. O
Đệ tử xin nguyền trở lại,
Sống trong hiện tại nhiệm mầu.
Vườn tâm ươm hạt giống tốt,
Vun trồng hiểu biết, thương yêu.
Xin nguyện học phép quán chiếu,
Tập nhìn, tập hiểu thật sâu,
Thấy được tự tánh các pháp,
Thoát ngoài sanh tử trần lao.
Nguyện học nói lời ái ngữ,
Thương yêu chăm sóc sớm chiều.
Đem nguồn vui tới mọi nẻo,
Giúp người vơi nỗi sầu đau.
Đền đáp công ơn cha mẹ,
Ơn thầy, nghĩa bạn dày sâu.
Tín thành tâm hương một nén,
Nguyện đức Từ Bi che chở,
Trên con đường đạo nhiệm mầu.
Nguyện xin chuyên cần tu tập,
Vuông tròn đạo quả về sau. OOO
***
11. HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Sám hối là hạnh tốt lành,
Vô biên phước đức sẵn dành chúng sanh
Nguyện cho tất cả hàm linh
Thảy đều tỏ ngộ phẩm kinh diệu huyền. O
Nguyện tiêu ba chướng não phiền,
Được nguồn trí tuệ, phá xiềng vô minh.
Nguyện trừ tội chướng điêu linh,
Hạnh lành Bồ-tát thường tinh tấn làm. O
Nguyện sanh cõi tịnh siêu phàm,
Hoa sen chín phẩm là hàng mẹ cha.
Hoa nở thấy Phật hiện ra,
Vô sanh chứng ngộ, bạn ta: “Thánh hiền”. O
Nguyện đem công đức hiện tiền,
Hướng về khắp cả các miền gần xa.
Con và cha mẹ, ông bà,
Chúng sanh giác ngộ, chan hòa pháp thân. (3 xá) OOO
***
12. LỜI NGUYỆN CUỐI
(Chủ lễ quỳ chắp tay, tha thiết nguyện; đại chúng mặc niệm)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật O
Trời giác ngộ muôn nơi sáng tỏ,
Bánh xe pháp vận chuyển không dừng,
Cửa thiền luôn được trang nghiêm,
Tăng chúng sống trong hòa thuận,
Nơi nơi thấm nhuần mưa pháp,
Người người hướng đến đạo mầu,
Nhà nhà hạnh phúc, an khang,
Đất nước hòa bình, hưng thịnh.
Chúng con nguyện đem công đức sám hối hôm nay hồi hướng cho Phật tử (tên họ, pháp danh, tuổi), tai ách được tiêu trừ, oan khiên đều dứt sạch, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, lòng tin vào Tam bảo ngày càng sâu, tâm từ với chúng sinh thêm tăng trưởng. O
Chúng con đồng hồi hướng cho hương linh (tên họ, pháp danh, ngày từ trần, hưởng thọ), phát tâm tỉnh giác, lìa chốn u minh, khởi niệm từ bi, xa lìa nẻo ác, tin sâu Tam bảo, sinh về cõi Phật an vui. O
Khắp nguyện: Người mất siêu thăng, kẻ còn phúc lạc, năm châu an định, bốn biển thanh bình, tình với vô tình đều thành Phật đạo. O
(Đại chúng cùng niệm)
Nam-mô Thường Trụ Tam Bảo. (3 xá) OOO
13. ĐẢNH LỄ BA NGÔI BÁU
(Đại chúng đứng dậy, chắp tay trang nghiêm, cùng tụng và lạy)
Con xin nương tựa Phật,
Bậc Phước Trí Viên Thành,
Cầu tất cả chúng sanh
Giác ngộ, phát tâm lành. (1 lạy) O
Con xin nương tựa Pháp,
Nguồn tuệ giác, từ bi,
Cầu tất cả chúng sanh
Hiểu đạo, tỏ nguồn tâm. (1 lạy) O
Con xin nương tựa Tăng,
Đoàn thể sống an vui,
Cầu tất cả chúng sanh
Hòa hợp, thương mến nhau. (1 lạy) O
***
MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH
Một là, những tội lỗi đã gây ra từ trước đến nay được tiêu trừ; nếu như đã mang những nghiệp duyên nặng nề thì sẽ được chuyển hoá thành nhẹ nhàng.
Hai là, thường được các thiện Thần ủng hộ, tránh được các tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, tù ngục…
Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo đau khổ, oán cừu oan trái của nhiều đời và hiện tại.
Bốn là, Long Thiên Hộ Pháp thường gia hộ nên những loài Dạ-xoa, ác quỷ, rắn độc, hùm beo đều tránh xa, không dám nhiễu hại.
Năm là, thân và tâm luôn được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng, diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ, an lành, việc làm thuận lợi, kết quả tốt đẹp.
Sáu là, tâm không mong cầu phước báu giàu sang, nhưng tự nhiên cơm ăn áo mặc được đầy đủ, gia đình trên thuận dưới hoà, con cháu đời đời hưởng lộc.
Bảy là, lời nói cho đến việc làm đều khiến mọi người đều sinh tâm vui vẻ, đi đến đâu cũng được mọi người chào đón niềm nở, kính mến, khen ngợi và tin tưởng.
Tám là, nếu mắc phải những chứng bệnh mê muội thì sẽ được trở nên thông minh lanh lợi, thân thể luôn được cường tráng khoẻ mạnh, nếu phải ở những nơi thâm sơn biên địa, thì những nơi ấy cũng trở nên thịnh vượng, sung túc. Tâm thức luôn hướng về chánh đạo, sau khi mạng chung sẽ được sinh thiên.
Chín là, khi tái sinh nếu là nam thì sẽ trở thành vương tôn công tử, nếu là nữ thì sẽ trở thành thiện mỹ nhân, tướng mạo đoan trang, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.
Mười là, thương tất cả chúng sinh như thân bằng quến thuộc, vì chúng sinh mà gieo trồng tất cả căn lành. Nhờ công đức ấy mà thường gặp được các Đức Phật, nghe pháp, siêng năng tu tập, cuối cùng được thành Phật quả.
Ấn Quang Tổ Sư dạy: Ấn tống kinh được vô lượng công đức như vậy, nên vào những dịp chúc thọ, thành hôn, cầu phước, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh… hãy tinh tấn phát tâm bồ-đề, ấn tống kinh điển, để gieo trồng cội phước cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.