PHẦN 2: MỘT SỐ CHỦ ĐỀ - Tính Chất Hòa Bình Của Phật Giáo

    Thế giới mà chúng ta đang sống luôn luôn nảy sinh tranh chấp và bất ổn. Trong quá khứ đã từng xảy ra không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn khốc, đẫm máu, làm thiệt hại vô số sinh mạng và tài sản. Hiện nay, tuy tình hình có hơi lắng dịu và hòa hoãn, nhưng chưa phải đã hoàn toàn ổn định. Do thế, hòa bình vẫn là một khát vọng muôn đời của toàn thể nhân loại. Đạo Phật vốn được tiếng là đạo từ bi, cứu khổ; thế thì, trong lĩnh vực Hòa bình, Phật giáo có những giải pháp gì được xem là hữu hiệu và khả thi hay không? Đó là điều mà bài viết này muốn gia tâm tìm hiểu.

1. NGUYÊN NHÂN CỦA MỌI SỰ TRANH CHẤP

    Xuyên qua lịch sử, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của các cuộc đấu tranh là do lòng tham dục của con người gây ra, khiến cho gia đình đổ vỡ, xã hội nhiễu nhương và nhân loại khổ đau. Chính điều đó đã được Đức Thế Tôn chứng ngộ và khai thị cho chúng ta:

    “Này các Tỳ kheo, do dục vọng làm nhân, do dục vọng làm duyên, nên vua tranh chấp với vua, Sát đế lỵ tranh chấp với Sát đế lỵ, Bà la môn tranh chấp với Bà la môn, gia chủ tranh chấp với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn tranh chấp lẫn nhau. Khi chúng đã dấn thân vào sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng tay, ném nhau bằng đá, đập nhau bằng gậy và chém nhau bằng gươm. Do đó,chúng bị tử thương, hoặc ngắc ngư quằn quại”. (Trung Bộ Kinh 1, tr. 87).

    Sự tranh chấp sở dĩ xảy ra, nếu không do lòng dục thúc đẩy, thì cũng do sự cuồng tín cố chấp gây nên, như một hôm Đức Phật khuyến cáo một thanh niên Bà-la-môn:

    Người trí giữ gìn chân lý không nên đi đến kết luận: “Chỉ có đây là chân lý, còn mọi điều kiện khác là sai lầm”. Một người có lòng tin, nếu y nói: “Đây là lòng tin của tôi”. Như thế là y giữ gìn chân lý. Nhưng từ đấy y không thể tiến đến kết luận tuyệt đối: “Chỉ có đây là chân lý, ngoài ra đều sai lầm”. Rồi Đức Phật dạy tiếp: “Chấp chặt vào một quan điểm và khinh miệt những quan điểm khác cho là thua kém, hành động như thế người trí gọi là mù quáng” (W.Rahula. What the Buddha taught).

    Quốc vương xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) là Ajatasattu (A Xà Thế) muốn mở mang vương quốc của mình bằng tham vọng chinh phục xứ Vajji (Bạc Kỳ). Vua sai đại thần Vũ Xá đến thỉnh ý Đức Phật về việc chinh phục này. Đức Phật rất tế nhị. Ngài không trả lời trực tiếp câu hỏi của nhà vua, mà Ngài gián tiếp trả lời bằng cách hỏi Tôn giả Ananda tình hình của xứ Vajji bằng 7 câu hỏi:

    - Này A-nan, dân Vajji có hội họp thường không?

    Dân Vajji có đoàn kết khi hội họp, đoàn kết khi giải tán và đoàn kết khi làm việc không?

    - Dân Vajji có sống đúng với truyền thống của dân tộc, và tôn trọng những luật pháp đã được ban hành từ thời xưa không?

    - Dân Vajji có tôn kính những bậc trưởng lão trong nước và nghe theo lời dạy của họ không?

    - Dân Vajji có cưỡng ép những thiếu nữ và phụ nữ bắt họ phải sống với mình không?

    - Dân Vajji có thường xuyên dâng lễ ở các nơi thờ tự không?

    - Dân Vajji có bảo vệ và tôn kính các bậc A la hán khiến các vị ấy tìm đến ở trong xứ để xứ sở được an lạc không?

    Bảy pháp này có thể tóm tắt bằng những danh từ thời đại:

1. Sinh hoạt dân chủ,

2. Tình đoàn kết dân tộc,

3. Nguyên tắc pháp trị,

4. Sự hòa hợp các thế hệ,

 5. Tôn trọng phụ nữ,

6. Tôn kính các tín ngưỡng,

7. Ưu đãi các bậc minh triết.

    Đây là 7 nguyên tắc giúp quốc gia hưng thịnh và tránh diệt vong. Sau khi nghe Tôn giả A Nan trả lời rằng dân Vajji đã thực hiện 7 pháp này rất tốt đẹp, đức Phật kết luận: “Thế thì dân Vajji sẽ phú cường, không ai có thể chinh phục được”. (Tăng chi bộ kinh III A. 23)

2. HẬU QUẢ CỦA NHỮNG SỰ TRANH CHẤP

    Do tham vọng mù quáng thúc đẩy, kẻ có thế lực thường dùng sức mạnh để đàn áp kẻ yếu và bắt họ phải khuất phục. Những kẻ bại trận khổ nhục đã đành mà những người chiến thắng do lửa tham thiêu đốt và oán thù chồng chất cũng chẳng an lạc gì hơn:

                   “Chiến thắng gây hận thù,

                   Thất bại chuốc khổ đau,

                   Ai từ bỏ thắng bại,

                   An tịnh liền theo sau.

                                           (Tương Ưng I, 102)

    Những kẻ bạo tàn gây đau khổ cho người khác mà mong hưởng được an vui, điều đó không bao giờ có:

                   “Ác nghiệp chưa chín muồi,

                   Kẻ Ngu tưởng đường mật.

                   Ác nghiệp khi chín thật,

                   Kẻ Ngu chuốc khổ đau”. (KPC. 69)

    Vì thế, đức Phật đã dạy khá rõ, kẻ làm ác dù trốn bất cứ phương trời nào cũng không thể thoát được luật nhân quả:

                   “Không trời cao biển rộng,

                   Không hang động, núi rừng.

                   Đã tạo nghiệp ác độc,

                   Trên đời hết chỗ dung”. (KPC. 127)

    Có một kẻ thù nguy hiểm hơn bất cứ kẻ thù nào khác trên đời này, đó là tâm niệm ác của ta. Những kẻ thù ở bên ngoài, chúng ta còn có hy vọng tránh được, chứ chính ta đã gây nên tội ác thì không sao tránh khỏi quả báo:

                   “Kẻ thù hại kẻ thù,

                   Oan gia hại oan gia,

                   Còn thua tâm niệm ác,

                   Do chính ta hại ta”. (KPC, 42)

    Thế nên chỉ có ta mới cứu được ta:

                   “Mẹ cha hay bà con,

                   Không làm gì được cả.

                   Chính nhờ tâm nguyện lành,

                   Đưa ta lên cao cả.” (KPC, 43)

    Luật nhân quả có vay có trả, rất công bằng, không thiên vị bất cứ người nào:

                   “Giết người bị người giết,

                   Thắng người, bị người thắng,

                   Mắng người bị người mắng,

                   Hại người bị người hại,

                   Do nghiệp lực diễn tiến,

                   Hại người, thành hại mình.

                                                       (Tương Ưng I, 103)

    Do vậy, những ai muốn sống an lạc tránh mọi sợ hãi và khổ đau, hãy theo lời Phật dạy, từ bỏ sát sanh: “Này gia chủ, do nguyên nhân sát sanh mà gây ra sợ hãi, hận thù ngay trong hiện tại, và sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến cho tâm cảm thụ khổ ưu. Từ bỏ sát sanh là chấm dứt sợ hãi, hận thù trong hiện tại, chấm dứt sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến cho tâm không còn cảm thọ khổ ưu. Do đó, ai từ bỏ sát sanh, người ấy thoát khỏi mọi sợ hãi và hận thù”(Tăng Chi IIIB. 176).

3. CẦN PHẢI TỪ BỎ HẬN THÙ VÀ TÀN BẠO

    Trong cuộc đời này, muốn sống được an vui, người ta phải từ bỏ hận thù. Bởi vì chúng ta không bao giờ có thể dùng hận thù để tiêu diệt hận thù, mà chỉ có thể dùng đức độ khoan dung mới tiêu diệt được hận thù:

                   “Nó mắng tôi, đánh tôi,

                   Nó hại tôi, cuớp tôi,

                   Ai ôm niềm hận ấy,

                   Hận thù không thể nguôi.”(KPC. 3)

                   “Hận thù diệt hận thù.

                   Đời này không thể có,

                   Từ bi diệt hận thù,

                   Là định luật nghìn thu.” (KPC. 5)

    Đem tình thương đáp lại hận thù, đó là một việc làm khó vô cùng. Cho nên, người nào làm được như vậy sẽ được nhân loại cúi đầu khâm phục; hơn thế nữa, người nào tự thắng được mình, đó mới là kẻ chiến thắng tối thượng:

                   “Dù tại bãi chiến trường,

                   Thắng nghìn nghìn quân địch,

                   Không bằng tự thắng mình,

                   Chiến công ấy vô định”. (KPC.103)

    Tự thắng mình có nghĩa là tự nhiếp phục cái tâm tham dục, ti tiện, hận thù hay gây ác nghiệp của chính mình. Người nào tâm không nghĩ ác, miệng không nói ác, thân không làm ác, thì người ấy sẽ không bị ác nghiệp hoành hành:

                   “Bàn tay không thương tích,

                   Cầm thuốc độc không sao,

                   Người không làm việc ác,

                   Không bị ác nhiễm vào”. (KPC.124)

    Muốn sống an vui hạnh phúc phải biết quý trọng mạng sống của mình, mà quý mạng sống của mình thì không được sát sanh và tán trợ sát sanh:

                   “Hình phạt ai cũng kinh,

                   Sinh mệnh ai cũng tiếc,

                   Lấy ta suy ra người,

                   Chớ giết, chớ bảo giết”. (KPC.130)

    Chẳng những không sát hại sanh linh mà còn phải bao dung độ lượng với những kẻ thù của mình; làm được như vậy, chúng ta mới hưởng được niềm vui thanh thản:

                   “Lành thay chúng ta sống,

                   Từ ái giữa hận thù!

                   Giữa bao kẻ hận thù,

                   Ta sống không thù hận!” (KPC.197)

    Im lặng và tha thứ thì đời sống sẽ trở nên êm đẹp biết bao!:

                   “Nếu tự mình im lặng,

                   Như chuông nứt nhiều đường,

                   Người ấy chứng Niết bàn,

                   Hận thù không còn nữa”. (KPC. 134)

    Nhưng trên đời này hạng người im lặng ít nói, khiêm tốn thật là hiếm hoi:

                   “Hiếm thấy ai ở đời,

                   Biết tự chế khiêm tốn,

                   Tránh mọi lời thương tổn,

                   Như ngựa hiền tránh roi”. (KPC. 143)

4. ĐỘ LƯỢNG KHOAN DUNG TRƯỚC NHỮNG CÔNG KÍCH

    a. Đức nhẫn nhục của Phật

    Một thanh niên Bà-la-môn tên Ambattha đi đến hội chúng của dòng họ Thích-ca– dòng họ của Phật– không được hội chúng này tiếp đón niềm nở, nên khi gặp đức Thế Tôn, ông đã chỉ trách dòng họ Thích-ca một cách kịch liệt: “Này Gotama, thô bạo là dòng họ Thích-ca, ác độc là dòng họ Thích-ca, khinh xuất là dòng họ Thích-ca, hung dữ là dòng họ Thích-ca, dòng họ Thích-ca thuộc thành phần đê tiện, không kính nhường Bà la môn, không lễ bái Bà-la-môn, không cúng dường Bà-la-môn, không tôn trọng Bà la môn. Này Gotama, như vậy thật không phải lẽ, thật không đúng pháp”.

    Trước những lời chỉ trách thô lỗ, đầy vẻ giận giữ của Ambattha, đức Phật đáp lại một cách từ hòa bình thản: “Này Ambattha, đối với việc sơ xuất nhỏ mọn của dòng họ Thích-ca, thật không đáng để cho ngươi bực mình, nặng lời chỉ trích đến thế.” (Trường bộ kinh 1. 90)

    Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục, Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục còn là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người. Nhẫn nhục đúng lúc có thể cảm hóa người khác dễ dàng. Do đó, người hiểu chánh pháp ít khi tranh chấp với đời, như đức Phật đã dạy trong Tương Ưng Bộ Kinh:

    “Này các Tỳ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Người nói pháp không tranh luận với một ai ở đời. Cái gì người trí ở đời chấp nhận là “Không”, Ta cũng nói là “Không”; cái gì người trí ở đời chấp nhận là “”, Ta cũng nói là “có.” (Tương ưng bộ Kinh, III. 165)

    Sống không tranh chấp là nhờ có trí tuệ hiểu rõ lẽ phải trái, không bướng bỉnh, ngoan cố, mà luôn luôn cảm thông với tha nhân; nhờ thông cảm với tha nhân nên dễ dàng mở lượng bao dung với tất cả mọi người.

    b. Lòng khoan dung của Phật

    Một hôm Bà la môn Akkosaka Bharadvàja đùng đùng nổi giận đến mắng nhiếc đức Phật thậm tệ. Khi y trút cơn phẫn nộ xong, Thế Tôn ôn tồn hỏi:

    - Này Bà-la-môn, nếu như bà con thân hữu đến thăm ngươi, ngươi sửa soạn cỗ bàn thết đãi mà họ không nhận thì sao?

    - Nếu họ không nhận thì các thức ăn, thức uống ấy sẽ về lại chúng tôi.

    - Cũng vậy, này Bà la môn, nay ngươi phỉ báng ta, mắng nhiếc ta, gây lộn với ta, nhưng ta không nhận; thế thì những sự việc ấy hẳn là về lại với ngươi thôi. (Tương ưng 1. 199)

    Đối với những người có ác tâm hủy báng, Đức Phật thường kham nhẫn chịu đựng, hoặc khoan dung tha thứ, hoặc dùng những lời lẽ ôn hòa, nhã nhặn để đối thoại. Một phương pháp tuyệt diệu nhất của Phật là nêu ví dụ cụ thể để làm sáng tỏ vấn đề, khiến cho kẻ đối thoại thấy rõ được sai lầm, do đó bày tỏ thái độ thành khẩn hối lỗi và phục thiện. Nhờ đức nhẫn nhục và lòng khoan dung mà Phật đã cảm hóa được biết bao người như thế.

5. TRANG TRẢI TỪ TÂM ĐỐI VỚI MUÔN LOÀI

    a. Tu tập từ tâm đạt được lợi ích

    Sứ mệnh của một Như Lai sứ giả là đem lại thanh bình an lạc cho tất cả chúng sinh, nhưng muốn cho muôn loài được hạnh phúc thật sự thì chính bản thân mình trước hết phải tu tập từ tâm. Chính phương pháp tu tập này, đức Đạo Sư đã ân cần trao truyền cho các đệ tử: “Này các Tỳ kheo, trong khi tu tập lòng từ, vị Tỳ kheo phải trang trải từ tâm khắp cả bốn phương, cùng khắp vô biên giới, với tâm từ hòa quảng đại, không hận, không sân; đồng thời cũng trang trải bi tâm, hỷ tâm và xả tâm như thế đến với tất cả muôn loài”. (Trung bộ kinh I.38)

    Là người, ai cũng muốn cộng đồng sinh hoạt chung sống hòa bình. Nhưng muốn chung sống hòa bình, trước hết mỗi người phải từ bỏ tánh ích kỷ vị lợi của chính mình, mà tuân theo những quy luật xã hội để đem lại an vui lợi lạc cho tập thể. Chính Tôn giả Anuruddhà đã phát biểu về nguyên tắc sống chung hòa bình ấy, khi bậc Đạo Sư hỏi thầy:

    - Này Anuruddhà, các ngươi sống hòa bình, hoan hỷ với nhau như nước hòa với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm như thế nào?

    - Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con nghĩ như sau:

     “Thật vô cùng lợi ích đối với ta, khi ta được sống chung với các vị đồng phạm hạnh như vậy”. Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên ý nghĩ, lời nói và hành động từ bi khi họ có mặt cũng như khi vắng mặt. Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau: “Ta hãy từ bỏ tâm vị kỷ của ta mà sống thuận theo tâm của các Tôn giả này”. Do vậy, Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. (Trường bộ kinh I. 200)

    Người có lòng từ chẳng những dễ dàng hòa mình cảm thông với đồng loại mà còn hưởng được niềm an lạc ngay trong khi ngủ:

                   “Khi thức không lo âu,

                   Khi ngủ không sợ hãi,

                   Phiền não nào động tâm,

                   Ngày đêm đều thoải mái”,

                               (Tương Ưng I. Tr. 136)

    Ai cũng mong muốn đời sống của mình được hạnh phúc, an vui, nhưng ít ai nỗ lực tu tập từ tâm. Nếu ai tu tập từ tâm thuần thục người ấy sẽ hưởng được 11 lợi ích:

    “Này các Tỳ kheo, từ tâm giải thoát được tu tập sung mãn, sẽ tác thành cỗ xe, thành căn cứ địa, nếu được tích lũy và phát triển sẽ thành tựu 11 lợi ích sau đây: Ngủ an lạc; thức an lạc; không ác mộng; được loài người ngưỡng mộ; được phi nhân ái kính; được chư thiên bảo hộ; không bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng; sắc mặt tươi sáng; khi mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp (đắc quả A la hán) thì sẽ sinh lên Phạm Thiên Giới”. (Tăng chi bộ kinh III, B. 300).

    “Chính nhờ lòng từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá khắp một vùng rộng lớn ở châu Á một cách êm đẹp, không bao giờ có sự can thiệp của vũ lực hay uy thế chính trị; không một giọt máu nào phải đổ trong khi truyền giáo; không một cuộc chém giết nào xảy ra do nhân danh đạo Phật, hay nhân danh đức Thế Tôn, thật là hãnh diện biết bao!” (Tiến sĩ K N. Jayatilleke)

    b. Sứ giả của Phật cứu đời bằng tình thương

    Trước hết chính bản thân mỗi người phải tu tập từ tâm, rồi sau đó sẽ đem diệu pháp của Như Lai mà giáo hóa quần sanh. Đó là di huấn của bậc Đạo sư:

    “Này các Tỳ kheo, vì hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người các ngươi hãy lên đường du hóa. Nhưng chớ đi hai người một chỗ, mà phải mỗi người một nơi. Hãy thuyết pháp đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối đều trôi chảy, có ý nghĩa, có mạch lạc.

    Tất cả mọi việc làm của người đệ tử bậc Chánh giác là hướng đến lợi mình, lợi người ngay trong hiện tại và cho cả tương lai. Đức Đạo sư đã thống thiết truyền dạy những điều đó cho Tôn giả La-hầu-la: “Này La Hầu La, mỗi khi con muốn làm một điều gì, con phải suy nghĩ: Nếu hành động mà ta muốn làm này có hại cho ta, hay cho kẻ khác, hoặc có hại cho cả hai, thì đó là hành động không tốt, hành động đem lại phiền não và đau khổ. Hành động ấy con phải tránh, không nên làm.

    “Nhưng này La Hầu La, nếu con thấy rằng hành động mà ta muốn làm sẽ có lợi cho ta, có lợi cho kẻ khác, có lợi cho ta và kẻ khác, thì đó là hành động tốt, hành động đem lại an vui và hạnh phúc. Hành động ấy con nên làm… và phải làm mãi mãi”. (Trung bộ kinh III, kinh Giáo giới La-hầu-la.”

    Mục đích của các đại đệ tử và các Bồ tát là lấy việc phụng sự chúng sanh làm sự nghiệp. Mà muốn chúng sanh được an vui hạnh phúc thì chính bản thân mình phải thể hiện lòng từ. Lòng từ có một mãnh lực kỳ diệu, sẽ cảm hóa kẻ xấu trở thành người tốt.

    Tôn giả Punna sau khi được Thế Tôn ban cho pháp từ bi cứu thế, đã phát nguyện đem đạo từ bi của bậc Đạo sư đến cảm hóa xứ Sunàparanta. Để thử thách bản lãnh của Punna, đức Thế Tôn đã đặt những câu hỏi như sau:

   - Này Punna, người nước Sunàparanta rất hung ác, thô bạo, nếu họ mắng nhiếc ngươi, nhục mạ ngươi, thì ngươi sẽ xử sự như thế nào?

    - Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ: “Người nước Sunàparanta thật là hiền thiện! Vì họ không dùng tay đánh con”

   - Nếu họ dùng tay đánh ngươi, thì ngươi sẽ nghĩ như thế nào?

    - Con sẽ nghĩ rằng họ còn hiền thiện; vì họ không lấy đất đá ném con.

    - Nếu họ lấy đất đá ném ngươi, thì ngươi sẽ nghĩ như thế nào?

    - Con sẽ nghĩ rằng họ còn hiền thiện; vì họ không lấy gậy đánh con.

    - Nếu họ lấy gậy đánh ngươi, thì ngươi sẽ nghĩ như thế nào?

    - Con nghĩ rằng họ còn hiền thiện; vì họ không dùng gươm bén kết liễu mạng sống của con.

    - Nhưng, nếu họ dùng gươm bén kết liễu mạng sống của ngươi, thì ngươi sẽ nghĩ như thế nào?

    - Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ: “Có những đệ tử của Thế Tôn ưu phiền, nhàm chán cái thân bất tịnh, muốn đi tìm con dao để kết liễu cuộc đời mà không có cơ hội. Nay ta khỏi cần đi tìm, mà lại may mắn được cơ hội ấy”. Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như vậy.

    - Lành thay, này Punna! Nay ngươi có thể sống trong xứ Sunàparanta, vì ngươi đã đủ năng lực nhiếp phục và an tịnh. (Trung bộ kinh III, 502)

    Chung cục, không phải người Sunàparanta ban ân huệ cho Tôn giả Punna bằng một lưỡi gươm bén, mà chính Tôn giả Punna đã cảm hóa họ, khiến cho hàng ngàn người đã trở thành những Phật tử thuần lương.

    Do thấm nhuần tinh thần từ bi độ sinh của đức Thế Tôn trao truyền mà Tôn giả A Nan đã dũng mãnh phát nguyện:

       “Tương thử thâm tâm phụng trần sát,

       Thị tắc danh vi báo Phật ân.

       Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,

       Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập.

       Như nhất chúng sinh vị thành Phật,

       Chung bất ư thử thủ Nê hoàn.

       (Nguyện trải thân phụng sự chúng sanh,

       Thế mới gọi báo ân chư Phật.

       Mong Thế Tôn thương xót chứng minh,

       Đời ngũ trược con xin vào trước.

       Nếu một chúng sanh chưa thành Phật,

       Con quyết không thể nhập Niết bàn).

                               (Bài tựa chú Lăng Nghiêm).

    Các hàng đại đệ tử của Phật phát nguyện độ sanh rất nhiều, ở đây chúng ta chỉ nêu lên vài tấm gương thường được nhắc đến. Bây giờ chúng ta cũng nên tìm hiểu một vài hạnh nguyện tiêu biểu của những vị Bồ tát.

    Mỗi buổi sáng sớm, theo nếp sống của thiền môn Tăng chúng thường tụng chú Lăng Nghiêm, sau phần tụng chú, họ tụng mười Hạnh Nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, mà nguyện nào, nguyện nào cũng mong đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, thật vô cùng cảm động, tiêu biểu nhất là hạnh nguyện thứ 9 và thứ 10:

       “Cửu giả hằng thuận chúng sanh,

       Thập giả phổ giai hồi hướng”.

       (Nguyện thứ chín hằng thuận chúng sanh,

       Nguyện thứ mười hồi hướng tất cả).

    Và một lời thệ nguyện khác cũng rất độc đáo:

       “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề,

       Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật”.

       (Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ đề,

       Địa ngục còn người, thề chẳng thành Phật.)

     Đó là thệ nguyện rộng lớn của Địa Tạng Bồ tát, mà có lẽ bất cứ ai trong chúng ta cũng đã từng nghe. Nhưng, chúng ta thường nghe hơn hết đó là hạnh nguyện hoằng đại tầm thanh cứu khổ của Quan Thế Âm Bồ tát. Ở đâu có tiếng kêu cứu là ở đó có hình ảnh Quan Thế Âm xuất hiện để cứu khổ độ nguy:

       “Phổ Đà lạc già thường nhập định,

       Tùy duyên phú cảm mị bất châu.

       Tầm thanh cứu khổ độ quần mê,

       Thị tắc danh vi Quán Tự Tại.

       (Nhập định thường xuyên núi Phổ Đà,

       Tùy duyên cứu độ khắp gần xa,

       Ở đâu cầu cứu Ngài đều đến,

       Quan Âm Tự Tại hiện Ta bà.)

    Chúng ta cũng không thể quên được hình ảnh của Bồ tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa, một hình ảnh vô cùng kỳ thú: “Bấy giờ có vị Bồ tát Tỳ kheo tên Thường Bất Khinh, mỗi khi gặp các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc hay Ưu bà di, đều đảnh lễ ngợi khen rằng: “Tôi rất quí kính các Ngài, chẳng dám khinh mạn. Vì quí Ngài đều tu hành đạo Bồ tát, sẽ được thành Phật”. Có kẻ thấy thế lấy làm kỳ lạ, buông lời mắng nhiếc: “Ông vô trí Tỳ kheo này từ đâu đến đây tự nói: “Ta chẳng dám khinh các Ngài”, mà thọ ký cho chúng ta sẽ thành Phật. Chúng ta chẳng cần lời thọ ký hư dối như thế”. Lại có những kẻ nghe Ngài nói thế nổi cơn giận dữ, lấy đá ném, hoặc lấy gậy đánh. Ngài liền chạy tránh, đứng từ xa to tiếng xướng rằng: “Ta chẳng dám khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ thành Phật”. Bởi Ngài thường thọ ký như vậy nên hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di gọi Ngài là Thường Bất Khinh Bồ tát.” (Kinh Pháp Hoa, phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát)

    Những hành vi của các vị Bồ tát này dường như rất huyền hoặc, không thể nào tin nổi. Nhưng nếu tinh ý một chút, chúng ta sẽ thấy các Ngài từng hóa thân bằng xương bằng thịt, chung sống với chúng ta trong cuộc sống đời thường. Cho nên, mỗi khi chúng ta gặp điều bất hạnh, thì các Ngài liền ra tay cứu độ mà chúng ta không hề biết.

6. CÁC VÌ VUA PHẬT TỬ ỨNG DỤNG THÔNG ĐIỆP HÒA BÌNH

    Vua A Dục, một vị hoàng đế Phật tử lừng danh của xứ Ấn Độ vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, nhờ thấm nhuần đạo từ bi khoan dung, sống chung hòa bình của đạo Phật, nên kính trọng và nâng đỡ tất cả mọi tôn giáo khác trong quốc độ rộng lớn của ông. Trong một lời tuyên bố của hoàng đế khắc trên trụ đá, đến nay ta còn đọc được: “Người ta không nên chỉ kính trọng tôn giáo của riêng mình mà bài bác những tôn giáo của kẻ khác, mà phải kính trọng tôn giáo của kẻ khác vì bất cứ lý do nào. Như thế, ta có thể làm cho tôn giáo mình phát triển, và giúp đỡ các tôn giáo khác nữa. Nếu không thế, tức là ta đã đào huyệt cho chính tôn giáo của mình, và còn làm hại các tôn giáo khác. Kẻ nào chỉ kính trọng tín ngưỡng của mình mà bài xích những tín ngưỡng của kẻ khác với ý nghĩ rằng: “Ta sẽ làm rạng danh tôn giáo của ta”, thì kỳ thực khi hành động như thế họ đã làm tổn thương tôn giáo của mình một cách trầm trọng. Bởi vậy, chỉ có hòa hảo là tốt đẹp hơn hết. Mọi người nên lắng nghe, và có thiện chí lắng nghe những lý thuyết mà người khác đề xướng.” (W.Rahula. What the Buddha taught)

    Nước Ấn Độ thật đáng hãnh diện có một vị hoàng đế Phật tử khéo áp dụng những lời dạy cao cả của đấng Giác ngộ trong công cuộc xây dựng đất nước phú cường, khiến cho sử sách ngàn thu còn ca tụng. Thế còn đất nước ta thì sao?

    Nhìn lại lịch sử nước ta, thời kỳ huy hoàng nhất của Phật giáo Việt Nam là thời Lý. Vua Lý Thánh Tông là ông vua rất nhân từ, nhờ thấm nhuần giáo lý từ bi của đức Phật, không những vua thương yêu những người dân lương thiện như con ruột, mà ngay cả những kẻ phạm tội vua cũng rủ lòng thương xót. Trong một phiên tòa xử kiện ở điện Thiên Khánh, vua đã chỉ vào công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh mà bảo ngục lại rằng: “Lòng ta yêu con ta, cũng như lòng cha mẹ dân yêu dân. Dân không biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương xót. Từ nay về sau không cử tội gì nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm.” (Đại Việt sử ký toàn thư).

    Vào mùa Đông năm Ất Mùi 1055, trong khi trời giá rét, cũng chính nhà vua này đã bảo các quan: “Trẫm ở trong cung, nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu, mà còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, bị gông cùm khổ sở chưa biết rõ ngay gian mà ăn không no bụng, áo chẳng kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không nơi nương tựa, Trẫm rất thương xót. Vậy, Trẫm hạ lệnh cho quan hữu ty phát chăn chiếu, và mỗi ngày cho ăn hai bữa.” (Đại Việt Sử ký toàn thư)

    Một ông vua ngồi trên ngôi báu xa cách muôn trùng đối với dân chúng thế mà vẫn nghĩ đến từng cuộc sống của mỗi người dân, thậm chí còn xót xa lo lắng và chăm sóc cả những người phạm tội. Thật là nhân từ biết bao!

    Sang đời Trần, đọc câu chuyện Thượng hoàng Thánh Tông đốt tài liệu hàng giặc của các quan, khiến chúng ta không khỏi nghiêng mình bái phục: Khi quân Nguyên tràn vào nước ta, thế giặc đang mạnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có ý tư thông với giặc. Đến lúc giặc thua chạy về Bắc, triều đình bắt được một tráp đựng những biểu hàng giặc của các quan. Đình thần muốn truy ra để trị tội, nhưng Thánh Tông nghĩ rằng trị tội những kẻ tiểu nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt cái tráp ấy cho yên lòng mọi người.

   Đó là lòng khoan hồng đối với các quan của Thánh Tông. Còn vua Nhân Tông mỗi khi ra đường gặp gia nhân các vương thần thì hay dừng lại để hỏi han, không cho vệ sĩ quát nạt họ. Vua nói: “Lúc thái bình thì nhờ có thị vệ tả hữu, mà lúc nước nhà lâm hoạn nạn, thì chính những người gia nhân ấy đi theo bảo vệ”. (Đại Việt Sử ký toàn thư).

    “Những ông vua ấy đã áp dụng tinh thần giáo lý đạo Phật để liên kết nhân tâm, tuy có phục vụ cho mục đích chính trị, nhưng không phải vì vậy mà giả danh Phật tử. Họ là những Phật tử chân chính, và có ý nguyện phụng sự đạo Phật song hành với phụng sự quốc gia và triều đại của họ”. (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, quyển I).

7. GIỚI TRÍ THỨC TÁN DƯƠNG PHẬT GIÁO

    Trong quyển Lý Thường Kiệt, một tác phẩm nổi tiếng của học giả Hoàng Xuân Hãn, khi khảo sát về ảnh hưởng của đạo Phật đối với các vua đời Lý, tác giả viết như sau: “Đời Lý có thể gọi là đời thuận từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng đạo Phật”.

    Ông Anagarika Dhammapala, một triết gia người Tích Lan, khi diễn thuyết tại một trường Đại học ở Calcutta năm 1915, ông đã nhắc lại với các sinh viên về thời đại huy hoàng của vua A Dục, và ông nói thêm: “Trong một ngàn năm nay Ấn Độ đã ít người theo Phật giáo, nhưng trong ngàn năm ấy, nhân dân Ấn Độ có thể viện ra một điều gì để tự hào không? Nhưng, nếu ta nhìn lại quá khứ về cái thời mà giáo lý của đức Đại Giác còn được sùng thượng ở đây, ta thấy rằng tất cả mọi người đều sung sướng viên mãn và tự do, mà không phải chỉ có một giai cấp được vậy mà thôi. Trong những thời đại theo Phật giáo, đời sống cộng đồng ở Ấn Độ đã biến cải hoàn toàn, Ngũ giới được áp dụng trong các làng mạc không phải chỉ bằng sức mạnh của luật pháp, mà bằng sự giáo dục quần chúng, đã thành nền móng của nền luân lý cộng đồng. Đức Phật là bậc thầy đầu tiên đã cấm buôn người nô lệ, cấm bán khí giới giết người, cấm bán thuốc độc để hại nhau, cấm bán ma túy khiến cho người dùng nó bị tàn phế điên rồ, và khiến cho các gia đình tan nát khốn khổ… Nữ giới và nam giới bình đẳng với nhau trước đạo pháp… Cõi Niết Bàn không dành riêng cho một giới nào hay một thế cấp nào, mà dành chung cho tất cả mọi người có tâm hồn hướng thượng.

    Một nhà trí thức Tây phương khác, tiến sĩ K.N. Gayatilleke trong cuộc hội thảo về đề tài “Tôn giáo và hòa bình” tại All Soula College ngày 8/4/1961 nhận xét về đạo Phật như sau: “Lý tưởng của đạo Phật, theo tôi là đạt được một tâm trạng yên tĩnh thường xuyên, không phải trong một tương lai xa xôi nào, mà chính ngay trong đời sống hiện tại. Đừng tưởng đây là một chủ trương cầu an, nhạt nhẽo và thụ động như một vài nhà phê bình Tây phương đã nghĩ. Bởi lẽ đoạn đường từ lối sống ích kỷ đến Niết bàn được Phật giáo coi như đoạn đường từ tù đày đến tự do, từ khiếm khuyết đến hoàn hảo, từ đau khổ đến cực lạc, từ tối tăm đến sáng suốt, từ cái biết hữu hạn đến cái biết vô biên, từ vô thường biến dịch đến bền vững thường hằng, từ sợ hãi lo âu đến yên ổn an lạc, từ bệnh hoạn tinh thần đến tráng kiện viên mãn… Sự thanh tịnh ấy vượt khỏi tầm nhận thức của con người; bởi vì nó là kết quả của những gì có tính cách nghịch lý trong công cuộc loại bỏ các dục vọng thấp hèn để đạt đến thực thể siêu việt – cái mà đạo Phật gọi là Thực thể chân như.

    Qua những trình bày trên đây chúng ta có thể khẳng định: Phật giáo là đạo từ bi và trí tuệ; từ là cho vui, bi là cứu khổ, trí tuệ là thấu rõ tính chất vô thường, khổ không của tất cả các pháp. Chính vì thế mà đạo Phật luôn luôn chủ trương chung sống hòa bình. Nhưng muốn chung sống hòa bình, đức Phật dạy mỗi người không những từ bỏ sự độc ác hận thù, tàn sát lẫn nhau, mà còn phải thể hiện đức nhẫn nhục và lòng khoan dung tha thứ. Bồ tát là hàng kế thừa và tuyên dương tinh thần từ bi cứu khổ của Phật. Phật tử chân chính là người áp dụng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật trong việc mưu tìm hòa bình hầu đem lại an vui, hạnh phúc cho xứ sở và cho cộng đồng nhân loại.

 

***

 
00:00