Chương II: QUAN ĐIỂM ĐẠO PHẬT

    Một trong những đặc điểm phân biệt Đức Phật với tất cả những Giáo chủ các tôn giáo khác là: Đức Phật là một con người không có mối liên quan nào với một Thượng đế hay bất cứ một con người siêu nhiên nào. Ngài không phải là Thượng đế cũng không phải là hiện thân của Thượng đế, càng không phải là một nhân vật huyền thoại nào. Ngài là một con người, nhưng một con người siêu việt, một con người phi thường. Về mặt nội tâm, trí tuệ Ngài đã vượt lên trên con người mặc dù bên ngoài Ngài vẫn sống cuộc sống của một con người. Chính vì vậy mà Ngài được tôn xưng là con người có một không hai, con người siêu xuất thế gian.

    Đức Phật nói: “Này các thầy Tỳ-kheo, cũng giống như một bông sen sanh ra và lớn lên trong nước, vươn thẳng lên không bị nước làm bẩn. Này các Tỳ-kheo, Như Lai cũng vậy, sinh ra và lớn lên nơi thế gian này, nhưng sống nhiếp phục thế gian, không bị thế gian làm ô nhiễm.(1)

    Dựa vào năng lực kiên định của chính mình, không được sự giúp đỡ của một vị thầy nào, dù là loài người hay chư thiên, Ngài đã hoàn tất những chứng đạt về tinh thần và trí tuệ giải thoát cao cả nhất; Ngài đã đạt đến đỉnh cao nhất của sự thanh tịnh và viên mãn trong những phẩm chất hoàn hảo nhất của nhân tính. Ngài là hiện thân của từ bi và trí tuệ, hai điều này đã trở thành những nguyên tắc giáo huấn trong Thánh giáo (sàsana) của Ngài.

    Qua chứng nghiệm tự thân, Ngài hiểu được tính cách ưu việt của con người, và khái niệm về con người “siêu nhiên” thống trị trên số phận của chúng sanh bên dưới chỉ là một ảo tưởng. Đức Phật không bao giờ cho mình là đấng cứu thế cố cứu lấy các linh hồn bằng một tôn giáo được mặc khải. Nhờ vào sự kiên trì và hiểu biết, Ngài chứng tỏ rằng những khả năng vô tận đang tiềm ẩn trong con người và con người phải nỗ lực cố gắng để phát triển và mở ra những khả năng này. Bằng sự chứng nghiệm của riêng mình, Ngài chứng tỏ rằng sự giác ngộ và giải thoát nằm trong khả năng con người một cách hoàn toàn và tuyệt đối. Là người chủ trương một đời sống nỗ lực qua khẩu giáo và thân giáo, Đức Phật khuyến khích hàng đệ tử tu tập sự nương tựa nơi chính mình, Ngài nói: “Hãy nương tựa chính mình, còn nương tựa ai khác?(2)  

    Cũng chính Đức Phật là người lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đã dạy rằng con người có thể tự mình đạt được giải thoát mà không cần một lực trung gian nào bên ngoài, rằng sự giải thoát khỏi đau khổ phải do mỗi người tự trui rèn và tạo nên trên chính cái nghiệp của mình.

    Không ai có thể ban cho người khác sự giải thoát nếu họ chỉ biết có van xin. Người khác có thể giúp chúng ta một cách gián tiếp, còn sự giải thoát cao cả nhất chỉ đạt được qua sự chứng ngộ tự thân và tự tỉnh giác đối với chân lý. Sự tự chứng ngộ chỉ có thể đến với người được tự do suy nghiệm những vấn đề của chính họ mà không bị cản trở bởi bất cứ gì. Mỗi cá nhân nên có sự cố gắng thích đáng và phá vỡ những gông cùm đã giam giữ mình trong cảnh nô lệ, đạt được sự giải thoát khỏi những kiềm kẹp của đời sống bằng sự kiên trì, nỗ lực và thiền quán chứ không phải qua lời cầu nguyện và van xin một đấng tối cao. Đức Phật cảnh giác hàng đệ tử của Ngài về việc đẩy gánh nặng qua cho một thế lực bên ngoài, một vị cứu tinh, một Thượng đế hay Phạm Thiên; Ngài hướng họ đến con đường nhận thức rõ ràng và tìm tòi nghiên cứu, thúc đẩy họ nên bắt đầu công việc phát triển thực sự năng lực và phẩm chất bên trong của họ. Ngài dạy: “Ta đã dẫn các người hướng đến sự giải thoát. Còn Giáo Pháp, Chân lý thì các người phải tự giác ngộ lấy.(3)

    Tu sĩ đạo Phật không phải là những thầy cúng tế, những người chuyên thực hiện những buổi tế lễ. Họ không quản lý những buổi lễ ban phước và tuyên đọc việc xá tội. Một tu sĩ Phật giáo đúng nghĩa không thể và không đứng trung gian giữa con người và quyền năng siêu nhiên, vì Đức Phật dạy rằng mỗi người chỉ chịu trách nhiệm cho sự giải thoát của chính họ. Cho nên không có nhu cầu chiếm tình cảm của một thầy cúng trung gian. “Hãy tự mình nỗ lực, các đấng Như Lai chỉ là người chỉ đường.(4)

    Con đường này chính là con đường cổ xưa mà các bậc Giác Ngộ đã đi qua và chỉ lại cho chúng ta. Đó là con đường của Tám Điều Cao Cả (Bát Thánh Đạo) dẫn đến sự giác ngộ và giải thoát cao cả nhất.

    Một đặc điểm nổi bật khác nữa là Đức Phật không bao giờ giữ lại cái tri kiến cao siêu đó cho một mình Ngài; đối với Ngài một điều như thế hoàn toàn không thể có được. Sự giác ngộ viên mãn, sự khám phá và ngộ ra được Tứ Thánh Đế (quả vị Phật) không phải là một đặc quyền đặc lợi của chỉ một người được lựa chọn bởi Thượng đế thiêng liêng; nó cũng không phải là một sự kiện độc nhất và không thể được lặp lại trong lịch sử nhân loại. Nó là một thành quả mở ra cho bất cứ ai nỗ lực tinh tấn để đạt sự thanh tịnh viên mãn, Trí tuệ chân thật và tu tập Bát Thánh Đạo với một ý chí không lay chuyển được.

    Đức Phật đã từng tuyên bố nghiêm túc rằng những ai tu dưỡng con đường này và đạt đến bậc cao nhất trong sự chứng ngộ, sự giải thoát khỏi đau khổ đều bình đẳng với Ngài về việc thoát khỏi uế trược và sự giải thoát tối hậu:

    “Thật vậy, giống như ta họ là bậc Thắng giả đã chứng được lậu tận.(5)

    Tuy nhiên, Đức Phật cũng làm sáng tỏ cho hàng đệ tử của Ngài thấy chỗ khác nhau giữa một bậc Chánh Đẳng Giác và các vị A-la-hán, những bậc Thánh Lậu Tận:  

    “Này các đệ tử, khi là một A-la-hán(6) Như Lai đã là bậc Chánh Đẳng Giác. Chính vị ấy là người tuyên bố con đường chưa hề được công bố trước đây, là người biết con đường, hiểu con đường và đã tu dưỡng trên con đường này. Và bây giờ hàng đệ tử của vị ấy là những người bước theo dấu chân Như Lai. Này các đệ tử, đó là sự phân biệt rõ ràng, là điểm xác thực để phân biệt Như Lai, một vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác với hàng đệ tử là các A-la-hán được giải thoát bằng tuệ giác.

    Khi truyền trao Giáo Pháp cho hàng đệ tử, bậc Đạo Sư không phân biệt bất kỳ người nào trong số họ, vì không có những đệ tử được chọn lựa ưa thích theo cảm tính. Trong số những người theo Ngài tất cả đều là A-la-hán, đã giải thoát khỏi phiền não, và đã tháo bỏ những gông cùm buộc phải tái sinh, cũng đã tự hoàn thiện trong sự thanh tịnh. Nhưng có vài vị nổi bật, họ giỏi về những ngành tri thức và sự tu tập khác nhau và do những thiên phú tinh thần họ đạt được những vị trí nhất định, nhưng bậc Đạo Sư không bao giờ ban cho người nào tình cảm đặc biệt. Chẳng hạn Upàli, xuất thân từ một gia đình thợ cạo, được cử làm trưởng lão về giới luật chứ không phải những vị A-la- hán thuộc giai cấp quý tộc và chiến sĩ.

    Chẳng có một dấu hiệu nào cho thấy rằng bậc Đạo Sư đã giao phó việc truyền bá Thánh giáo cho một đệ tử đặc biệt nào trước khi Ngài nhập Niết-bàn, cũng không trao cho hai đệ tử trưởng của Ngài là Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên. Ngài đã không chỉ định bất cứ ai làm người thừa kế. Về việc này, hãy lưu ý đến một điểm lý thú là Đức Phật đã nói rõ với hàng đệ tử trước khi Ngài nhập Niết-bàn rằng Ngài không bao giờ nghĩ đến việc kiểm soát Giáo Đoàn. Bậc Đạo Sư nói với các đệ tử vây quanh nơi Ngài sắp nhập diệt:

    “Giáo pháp và giới luật mà ta đã khai mở và để lại cho các ông, sau khi Như Lai nhập diệt hãy xem đó là người thầy dẫn dắt các ông.(7)

    Ngay khi Đức Phật còn tại thế, chính Giáo Pháp và Giới Luật đã kiểm soát và dẫn dắt các thầy Tỳ-kheo chứ Ngài không phải là người cầm quyền. Bát Thánh Đạo, con đường cổ xưa của Đức Phật là giáo lý cho người giải thoát.

    Đức Phật xuất hiện vào lúc mà chủ nghĩa độc tài đang thịnh hành ở Ấn Độ, nhưng giáo lý của Ngài có phần đe dọa đối với một chính phủ độc tài như thế. Tuy nhiên, Ngài không can thiệp vào việc chính trị và chính quyền quốc gia, vì Ngài không bao giờ là người xen vô những việc mà sự can thiệp không có lợi ích; nhưng điều đó không cản trở Ngài trong việc nói lên những tư tưởng và quan điểm dân chủ của Ngài. Lời dạy của Đức Phật khuyến khích một cách rõ ràng tư tưởng và cơ chế dân chủ. Dù cho Đức Phật đã kềm chế một cách khôn ngoan không can thiệp vào chính quyền hiện hữu, nhưng Ngài đã lập nên Tăng đoàn, cộng đồng tu sĩ, một cơ chế tuyệt đối dân chủ.   

    Lại một tính chất đặc biệt khác là phương pháp giảng dạy giáo pháp của Đức Phật. Ngài không chấp nhận những ai cho là có những “giáo lý bí truyền.” Ngài nói: “Sự bí mật là dấu hiệu hiển nhiên xác nhận một tà thuyết.” Đức Phật nói với Ananda, thị giả của Ngài: “Này Ananda, ta đã dạy giáo pháp, không phân biệt bí truyền hay công truyền. Này Ananda, Như Lai không có cái nắm tay khép chặt của một vị thầy còn giấu giếm cái tri thức tinh yếu nào đó với học trò mình.(8)  Ngài tuyên bố giáo pháp một cách tự do và bình đẳng cho mọi người. Ngài không giữ lại cái gì, và không bao giờ muốn bòn rút từ hàng đệ tử mình niềm tin mù quáng và sự dễ phục tùng đối với Ngài và giáo lý của Ngài. Ngài nhấn mạnh đến một sự khảo sát rành mạch và sự đòi hỏi trí thông minh. Ngài thúc giục một sự nghiên cứu có phê phán một cách rõ ràng và bắt buộc khi Ngài nói với những người Kàlàmas đang chất vấn trong một bài pháp được gọi một cách đúng đắn là “Hiến chương đầu tiên về sự tự do tư tưởng.” Bản tóm tắt của kinh Kàlàma như sau:

     Kesaputta là một thị trấn nhỏ trong vương quốc Kiều- tất-la (Kosala). Dân cư ở đó được gọi là dân Kàlàmas. Khi nghe nói Đức Phật đã đi vào thành, họ đến nhờ Ngài hướng dẫn và thưa:

    “Bạch Thế Tôn, có một số ẩn sĩ và Bà-la-môn đến thăm Kesaputa. Đối với kiến giải của họ thì họ dẫn giải đầy đủ, nhưng họ lại lên án, sỉ vả và làm tổn thương kiến giải của người khác. Những ẩn sĩ và Bà-la- môn khác đang đến Kesaputta cũng hành động giống như vậy. Bạch Thế Tôn, chúng con hoài nghi và bắt đầu nao núng không biết người nào trong số những vị này nói sự thật và vị nào nói điều hư dối.”

    “Hỡi người dân Kàlàmas! Phải, các người hoài nghi là phải; sự hoài nghi đã nảy sinh ra trong những điều đáng nghi ngờ. Hãùy đến đây, hỡi người Kàlàmas, đừng để bị dắt dẫn bởi những lời báo cáo, bởi truyền thống, hay lời đồn đại, cũng không theo những điều đã có trong những kinh điển, cũng không chỉ thuần lý luận hay suy diễn, không theo sự đánh giá bề ngoài, cũng không vì sự tán đồng một học thuyết nào đó, cũng không bởi sự “dường như  có thể”, cũng không từ sự suy nghĩ “vị tu sĩ này là thầy mình”. Nhưng hỡi người Kàlàmas, khi các vị tự biết: “những điều này là bất thiện, là đáng trách, là không lợi lạc”, như vậy các vị phản đối bác bỏ chúng...

    “Và khi các vị tự biết rằng: những điều này là thiện, không đáng trách, và lợi lạc; do vậy khi đã đồng ý chúng thì các vị hãy tuân thủ chúng”. Rồi Đức Phật đặt câu hỏi với họ như vầy: “Nào, các vị nghĩ gì, hỡi những người Kàlàmas, khi tham, sân, si hiện khởi nơi một người nào đó thì chúng hiện khởi với sự lợi lạc hay sự mất mát, thua thiệt? Chúng đáng trách hay không?”

    - Bạch Thế Tôn, chúng hiện khởi với sự mất mát, thua thiệt và chúng đáng trách.

    - Vậy hỡi người Kàlàmas, các vị nghĩ gì, khi sự giải thoát khỏi tham sân si hiện khởi nơi một người nào đó, thì chúng hiện khởi với sự lợi lạc hay mất mát, thua thiệt, chúng đáng trách hay không?

    - Bạch Thế Tôn, với sự lợi lạc, chúng không đáng trách.

    - Như vậy, này các người Kàlàmas, những lời ta nói với các vị ngay bây giờ là: “Đừng để bị dắt dẫn bởi những lời báo cáo... tuân thủ chúng”. Đó là lý do để ta nói những điều đó.

    Tin nhận bất cứ điều gì mà không quán xét đều không phải là tinh thần của đạo Phật; do đó, chúng ta tìm thấy mẩu đối thoại sau đây giữa bậc Đạo Sư và các đệ tử của Ngài:

    - Nếu bây giờ, vì hiểu điều này và gìn giữ nó nên các ông nói: “Chúng ta tôn kính vị Đạo Sư của chúng ta, và do lòng tôn kính đối với người mà chúng ta tôn kính những điều gì người dạy” hay không?

    - Bạch Thế Tôn, không.

    - Hỡi các đệ tử, điều mà các ông khẳng định, có phải chỉ là điều mà chính các ông đã nhận biết, đã thấy, đã  hiểu rõ không?

    - Bạch Thế Tôn, phải.

     Và với thái độ hoàn toàn chính xác của việc thẩm tra thật sự, trong một luận văn về lý luận đạo Phật, có dẫn câu nói: “Như một người có trí thử vàng bằng cách đốt, cắt và chà nó (trên một mảnh đá thử vàng) thì các ông cũng vậy, chấp nhận lời ta nói sau khi đã suy nghiệm chúng chứ không phải do lòng tôn kính ta.

    Đạo Phật không có cưỡng bách và ép buộc và không đòi hỏi ở tín đồ một niềm tin mù quáng. Ngay từ buổi đầu, người hay hoài nghi sẽ lấy làm thích thú khi nghe kêu gọi sự thẩm xét. Đạo Phật, từ đầu cho đến cuối, mở ra cho tất cả những ai có tuệ nhãn để quán sát và có tâm trí để thấu hiểu.

    Có một lần, khi Đức Phật cư trú trong vườn xoài ở Nàlandà, một tín đồ nhiệt thành của phái Ni-kiền-đà là Upàli đến gần bậc Đạo Sư với ý đồ duy nhất là tranh cãi với Ngài và đánh bại Ngài. Chủ đề là học thuyết về Karma (nghiệp) mà cả Đức Phật lẫn Ni-kiền-đà đều tin theo, mặc dù những kiến giải của mỗi bên về nó khác hẳn nhau. Cuối buổi thảo luận rất thân thiện đó, Upàli thấy rõ chỗ sai lầm của mình qua những lập luận của Đức Phật. Đồng ý với những kiến giải của Đức Phật, và sẵn sàng trở thành một tín đồ, một đệ tử cư sĩ của Đức Phật. Tuy nhiên Đức Phật cảnh giác Upàli: “Này gia chủ, chân lý nào cũng phải được xem xét kỹ lưỡng. Đối với một người có tiếng tăm tốt như ông thì việc nghiên cứu kỹ lưỡng là một điều tốt.” Tuy nhiên, Upàli lại thấy hài lòng và hoan hỷ vì được Đức Phật cảnh giác, rồi ông xin quy y với Phật, Pháp, Tăng.

    Đoạn này giải thích rõ ràng Đức Thế Tôn không hề ưu tư đến việc thu thập tín đồ trừ khi họ đến với Ngài do niềm tin của chính họ - đây là một bài học mà các nhà truyền giáo nên học.

    Đức Phật không bao giờ can thiệp vào tự do tư tưởng của người khác; vì tự do tư tưởng là một quyền lợi tự nhiên của mỗi cá nhân. Thật là sai trái khi ép một người phải từ bỏ lối sống phù hợp với quan điểm và cá tính của họ, phù hợp với sở thích và các khuynh hướng tinh thần của họ. Sự bắt buộc trong mọi hình thức đều là không tốt. Bắt một người cố nhồi nhét những tín ngưỡng mà họ không có một chút thoả mãn nào chính là sự ép buộc của loại bản chất đen tối nhất. Sự nhồi nhét cưỡng bức như thế không hề tốt cho một ai ở bất cứ nơi nào.

    Ý nguyện duy nhất của Đức Phật là làm sáng tỏ cho người khác thấy rằng sự nhìn ra thực tánh của các pháp không phải là hệ quả của niềm tin đơn thuần hay sự  sợ sệt cái năng lực nào bên ngoài, dù là cao siêu hơn hay thấp kém hơn loài người. Chân lý của giáo pháp chỉ có thể đạt được bằng tuệ giác, chứ không bao giờ bằng đức tin mù quáng hoặc bằng sự sợ hãi vào một người mà ta biết hay không biết. Lịch sử các tôn giáo cho thấy rằng chính sự sợ hãi nơi con người bị ràng buộc trong vô minh tạo ra ý tưởng về một nhân vật chủ tể bên ngoài có quyền lực vô hạn. Một khi có tư tưởng đó người ta có những hành động giống như đứa trẻ khiếp sợ, và làm những điều tác hại không kể xiết cho chính họ và đôi khi cho cả người khác nữa.

    Đức Phật dạy các Tỳ-kheo: “Người nào chỉ có lòng tin nơi ta, chỉ có yêu mến ta, là những người đang hướng về một trạng thái tốt đẹp của sự sống (nhưng họ không đạt được sự giải thoát cuối cùng cao cả của quả vị thánh A-la-hán). Những người nào nỗ lực học giáo pháp, quyết định đi vào đạo, là họ hướng về sự tỉnh thức giác ngộ để đạt đến quả vị thánh (Arahatta).

    Đây là những dấu hiệu rõ ràng cho thấy là Đức Phật không muốn tín đồ của Ngài nhận thức mọi sự việc một cách thiếu sáng suốt và vô lý.

    Đức Phật không chỉ ngăn chặn niềm tin mù quáng và sự sợ hãi về một đấng toàn năng, đó là những khuynh hướng không thích hợp cho sự hiểu biết chân lý, Ngài còn phản đối sự tham gia vào những lễ lạc cúng tế vô bổ, bởi vì việc phóng túng chạy theo những điều bên ngoài, như nhịn đói, rửa tội trong những dòng sông, tế lễ thú vật và những hành động tương tự, không đưa đến chỗ tịnh hoá con người, không làm cho con người trở nên thánh thiện, cao cả.

    Chúng ta tìm thấy mẩu đối thoại giữa Đức Phật và vị Bà-la-môn Sundarìka Bhàradàja sau đây. Có một lần Đức Phật giải thích chi tiết cho các thầy Tỳ-kheo phương cách mà một người đi tìm sự giải thoát nên tự luyện tập, và nói xa hơn nữa là một người tâm được giải thoát khỏi những ô nhiễm mà đời sống thanh tịnh hoàn hảo và bổn phận người đó đã làm xong, có thể được gọi là một người đã gội sạch nội tâm của mình.

    Lúc đó Bhàradàja ngồi cạnh Đức Phật nghe những lời này và hỏi Ngài:

    - Đức Cồ-đàm có đi tắm ở sông Bàhuka không?

    - Này người Bà-la-môn, tắm ở dòng sông Bàhuka có gì tốt không?

    - Bạch Đức Cồ đàm, quả là nhiều người tin dòng sông Bàhuka là thiêng liêng. Nhiều người đã gột rửa những hành động xấu của họ trong dòng sông Bàhuka đó.

    Lúc đó Đức Phật nói cho người nọ hiểu rằng tắm trong những dòng sông sẽ không thể nào làm cho một người gột sạch vết dơ xấu ác của họ, và Ngài dạy:

    - Hỡi người Bà-la-môn, tắm ngay tại đây (ở trong Giáo Pháp và Giới Luật-Dhamma-Vinaya) làm cho tất cả mọi người được an lạc. Nếu ta không nói dối, hay sát hại, ăn cắp, nếu ta tự tin, và không đê tiện, thì có lợi lạc gì cho ta khi đến sông Gayà (tên một con sông ở Ấn Độ vào thời Đức Phật)? Cái giếng ở nhà ông cũng là dòng sông Gayà.

    Đức Phật tuyên bố một con đường ngoài mọi sự mê tín và ác độc, nghĩa là Ngài dạy cho tín đồ của Ngài cư xử trong mọi cách đều không gây tổn hại cho phúc lợi của mọi người, đặt ra ngoài vòng pháp luật tất cả những đàn áp, cướp đoạt và trộm cắp.

    Vậy, đạo Phật là gì?

    Có người thích gọi giáo lý của Đức Phật là một tôn giáo, những người khác gọi nó là một triết học, còn những người khác nữa nghĩ nó vừa là tôn giáo vừa là triết học. Tuy nhiên có lẽ gọi nó là “một cách sống” thì đúng hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là đạo Phật chẳng là gì ngoài các nguyên tắc đạo đức. Trái lại, đó chính là một phương thức trau dồi đạo đức (giới), tinh thần (định) và trí tuệ dẫn đến hình thành sự giải thoát hoàn toàn của tâm thức. Chính Đức Phật gọi giáo lý của Ngài là “Dhamma-Vinaya”, tức là Giáo pháp-Giới luật, hay pháp và luật. Nhưng hiểu sát nghĩa nhất thì học thuyết nhà Phật không phải là một tôn giáo theo cách hiểu là “hành động hay cách xử sự tỏ rõ một đức tin, sự tôn kính và muốn làm hài lòng một đấng quyền năng thiêng liêng nào đó; hoặc là sự thực hiện những lễ lạc hay cúng kính có ngụ ý nói trên; hoặc là sự nhận thức của con người về một quyền năng vô hình nào đó cao cả hơn, kiểm soát vận mệnh của con người và được hưởng sự vâng phục, tôn kính, thờ phụng.” Đạo Phật chắc chắn không phải là một tôn giáo như thế.

    Trong tư tưởng Phật giáo, không có nhận thức hay tin tưởng vào sự hiện hữu dưới bất cứ hình thức nào của một đấng tạo hoá ban thưởng hay trừng phạt những hành động tốt hay xấu của những tạo vật do Ngài sáng tạo ra. Một người Phật tử quy y với Đức Phật nhưng không cầu mong sẽ được Ngài cứu rỗi; không có một bảo đảm như thế. Đức Phật chỉ là một vị thầy chỉ ra con đường và hướng dẫn tín đồ đạt đến giải thoát cho bản thân họ.

    Thí dụ, một biển báo cho người đi đường ở các ngã rẽ để chỉ hướng đi và để mặc cho khách bộ hành bước đi trên đường và dõi theo bước chân họ. Chắc chắn tấm bảng sẽ không dẫn họ đến tận nơi họ muốn đến.

    Một thầy thuốc chỉ chẩn đoán bệnh rồi kê toa và bệnh nhân phải tự uống thuốc thì mới chữa được bệnh. Thái độ của Đức Phật đối với tín đồ của Ngài giống như cách của một vị thầy giáo hay thầy thuốc trí tuệ và từ bi.

    Sự thờ phụng cao cả nhất là sự thờ phụng được dâng lên cho bậc hiền thiện nhất trong loài người, những con người vĩ đại và dũng cảm bằng sự hiểu biết sâu rộng về thực tại đã xoá bỏ được vô minh và nhổ bỏ tận gốc những ô nhiễm. Những người đã nhìn ra chân lý là những người cứu độ thật sự, nhưng người theo đạo Phật không cầu khẩn mà chỉ tôn kính những bậc đã khai mở ra chân lý, chỉ ra con đường đưa đến chơn hạnh phúc và giải thoát. Hạnh phúc là cái mà con người phải đạt được cho chính mình, không ai có thể làm cho mình tốt hơn hay xấu hơn. “Thanh tịnh hay ô nhiễm là tự nơi mình. Không ai có thể làm cho ai thanh tịnh hay ô nhiễm được.”

    Lúc sắp nhập Niết Bàn giữa hai hàng cây Sa-la ở thành Câu-thi-na, vị Phật tám mươi tuổi, trông thấy những bông hoa dâng cúng Ngài, nói với Ananda: “Này Ananda, người nào sống phạm hạnh, sống theo giáo pháp - đó chính là người nể trọng, tôn kính và sùng thượng Như Lai một cách chân chánh với lòng tôn kính xứng đáng nhất. Cho nên này Ànanda, hãy sống phạm hạnh, sống theo Giáo pháp. Cứ như thế mà tự sách tấn mình.

    Sự khuyến khích sống theo chánh pháp của Đức Phật cho thấy rõ điều quan trọng nhất là tu tập giới hạnh về thân, khẩu, ý chứ không phải chỉ có dâng hoa cúng dường các Đấng Giác Ngộ. Điều quan trọng được Đức Phật luôn nhấn mạnh là sống theo chánh pháp.

    Ngày nay khi một người Phật tử dâng hoa hay thắp đèn trước hình tượng Phật hay một đối tượng thiêng liêng nào đó và suy gẫm về những phẩm hạnh cao đẹp nhất của Đức Phật, họ không cầu khẩn một người nào; đây không phải là những lễ lạc, những nghi thức cúng tế hay những hành vi thờ phượng. Bông hoa sớm héo úa và ngọn lửa rồi cũng tàn lụi sẽ nói với họ và bảo cho họ biết về tất cả các pháp do duyên sinh. Hình ảnh Đức Phật giúp họ có một đối tượng để tập trung, để thiền định; họ có được sự cảm hứng và nỗ lực để đạt cho được những phẩm hạnh của Bậc Đạo Sư. Những người không hiểu ý nghĩa của sự dâng cúng đơn giản này kết luận một cách vội vàng: “Đấy là thờ phụng tượng thần.” Thật không có gì sai lầm hơn!

    Trong cuốn tự truyện của mình, Ông Jawaharlal Nehru có viết:

    “Tại Anu- ràdhapura, tôi rất thích một bức tượng Phật ở tư thế ngồi đã cũ. Một năm sau, khi tôi ở Dehra Dun Gaol, một người bạn ở Tích Lan gửi cho tôi một bức ảnh chụp tượng này, và tôi đã thờ bức ảnh tượng Phật trên cái bàn nhỏ trong căn phòng tôi. Bức ảnh này đã trở thành một người bạn đồng hành quý giá cho tôi; những nét mạnh mẽ, trầm tĩnh của Đức Phật đã làm tôi dễ chịu và cho tôi sức mạnh, giúp tôi vượt qua được một giai đoạn buồn chán trong đời.

    Ông P. D. Ouspensky, khi trông thấy một bức ảnh Đức Phật trong một tu viện ở gần đỉnh núi Lavinia Tích Lan, đã viết:

    “Gương mặt của Đức Phật thật là sống động; dù Ngài không nhìn thẳng vào tôi nhưng Ngài đã thấy tôi. Trước hết tôi không có cảm giác gì mà chỉ tự hỏi: Tôi không mong đợi và không thể chờ đợi một cái gì giống như thế. Nhưng sự tự hỏi và tất cả những tình cảm, tư tưởng khác đã tan biến rất nhanh trong những cảm giác mới mẻ lạ lùng. Đức Phật nhìn tôi, thấy trong tôi điều mà tự tôi không thể thấy được, tất cả những điều đó được giấu trong những nơi sâu kín bí ẩn nhất của tâm hồn tôi. Dưới cái nhìn chăm chăm của Ngài dường như không biết gì đến sự có mặt của tôi, tôi bắt đầu tự cảm thấy hết tất cả mọi điều này. Tất cả những gì nhỏ nhặt, dư thừa, khó chịu và xáo trộn đều lộ diện và tự phô bày ra dưới tia nhìn này. Gương mặt Đức Phật vô cùng định tĩnh, nhưng không phải là không có một biểu lộ nào, mà là đầy những tư tưởng và tình cảm sâu lắng. Ngài đang nằm đó lắng sâu trong tư duy, và tôi đã đến, mở toang những cánh cửa, đứng trước mặt Ngài, và bây giờ Ngài đang miễn cưỡng phán xét tôi. Nhưng không có một sự khiển trách hay quở phạt nào trong tia nhìn đó. Cái nhìn của Ngài cực kỳ nghiêm trang, trầm tĩnh và đầy sự cảm thông. Nhưng khi tôi cố tự hỏi là gương mặt Đức Phật đang biểu lộ điều gì, tôi chợt nhận ra là không thể trả lời. Nét mặt Ngài không lạnh lùng cũng không hờ hững. Mặt khác, cũng không đúng chút nào khi nói rằng nét mặt Đức Phật diễn tả sự nồng nhiệt, tình cảm hay từ bi. Quy cho Ngài tất cả những điều đó thật là quá bé nhỏ. Đồng thời cũng là sai lầm khi cho rằng nét mặt Đức Phật biểu lộ sự cao cả xuất thế gian hay trí tuệ thần thánh. Không, đó là gương mặt của con người, nhưng đồng thời là một gương mặt mà con người không phải ngẫu nhiên có được. Tôi cảm thấy rằng những lời lẽ mà tôi có thể đưa ra sẽ là sai lạc nếu dùng nó để diễn tả nét mặt Ngài. Tôi chỉ có thể nói rằng gương mặt Ngài biểu hiện sự hiểu biết.

    “Đồng thời tôi bắt đầu cảm giác được cái ảnh hưởng kỳ lạ mà nét mặt Đức Phật đã gây ra cho tôi. Tất cả mọi sự tối tăm buồn rầu dấy lên từ những nơi sâu thẳm trong tâm hồn tôi hình như đã được xoá sạch, như thể nét mặt của Đức Phật đã truyền sang cho tôi sự êm đềm tĩnh lặng của Ngài. Cho đến lúc này, mọi việc đã từng làm xáo trộn tâm hồn tôi và đã xuất hiện rất là nghiêm trọng, thì bây giờ đây trở nên rất là nhỏ nhặt, vô nghĩa và không đáng quan tâm, đến nỗi tôi chỉ tự hỏi là làm thế nào mà nó đã từng có ảnh hưởng đến tôi như thế. Và tôi cảm thấy rằng dù cho một người có bị xúc động, xáo trộn, bị quấy nhiễu và bị dày xéo bởi những tư tưởng và tình cảm mâu thuẫn khi đến đây, nhưng rồi họ sẽ ra đi trong êm đềm, tĩnh lặng, giác ngộ và hiểu biết. . . .

    Về việc đạo Phật có phải là một triết học hay không, điều đó còn tuỳ thuộc vào định nghĩa của danh từ; và người ta còn nghi ngờ việc có thể cho một định nghĩa bao hàm được tất cả mọi hệ thống tư tưởng triết học hiện có. Về mặt từ nguyên học, thì triết học (philosophy) có nghĩa là yêu thích (tiếng Hy Lạp là philei) trí tuệ (sophia). “Triết học vừa là sự tìm kiếm trí tuệ, vừa là trí tuệ được tìm kiếm”. Trong tư tưởng Ấn Độ, triết học có nghĩa là “darsana,” sự nhìn thấy chân lý. Tóm lại, mục tiêu của triết học phải là tìm ra được chân lý tối hậu.

    Đạo Phật có chủ trương tìm kiếm chân lý, nhưng không chỉ đơn thuần là lý luận có tính cách suy đoán, một cấu trúc thuộc lý thuyết, hay chỉ thu thập và tích luỹ kiến thức. Đức Phật nhấn mạnh khía cạnh thực tiễn của giáo lý, sự ứng dụng kiến thức vào đời sống - nhìn xuyên suốt cuộc sống chứ không chỉ nhìn trên bề mặt của nó.

    Đối với Đức Phật, toàn bộ giáo lý của Ngài chỉ là sự hiểu biết về tánh chất bất xứng ý của mọi hiện hữu và sự tu tập về con đường dẫn ra khỏi sự bất xứng ý này. Đây là “triết lý” của Đức Phật.

    Trong đạo Phật, trí tuệ là cái quan trọng nhất vì sự tịnh hoá đến từ trí tuệ, từ sự hiểu biết. Nhưng Đức Phật không bao giờ tán thán cái chỉ là tri thức, mà theo Ngài tri thức phải song hành với tâm thanh tịnh, với sự hoàn hảo về giới luật (Minh hạnh túc, Vijjà caranasampanna). Trí tuệ có được bằng sự hiểu biết, và sự phát triển những phẩm chất của tâm trí là cái trí tuệ cao siêu nhất. Đó là cái tri kiến giải thoát, chứ không phải chỉ thuần là sự suy đoán, là luận lý học hay sự lý luận theo nghĩa rộng. Như vậy, rõ ràng là đạo Phật không phải chỉ thuần là sự yêu thích trí tuệ hay chỉ là sự tìm kiếm trí tuệ, cũng không phải sự sùng thượng trí tuệ (mặc dù chúng có ý nghĩa của chúng và có liên quan tới con người), mà đạo Phật chính là một sự khích lệ ứng dụng thực tiễn giáo lý của Đức Phật dẫn tín đồ đến chỗ ly dục, đến chỗ giác ngộ và giải thoát cuối cùng.

    Mặc dù chúng ta gọi lời dạy của Đức Phật là “thuyết nhà Phật,” gọi như thế là bao gồm giữa “học thuyết (isms)” và “ngành học (ologies),” nhưng thật ra thì gán cho nó cái nhãn hiệu gì cũng chẳng sao cả. Hãy cứ gọi nó là tôn giáo, triết học, Phật giáo hay bằng bất kỳ tên nào khác mà chúng ta thích; những nhãn hiệu này chẳng quan trọng mấy đối với người đi tìm chân lý và sự giải thoát.

    Khi Upatissa và Kolita (về sau sẽ là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, hai đại đệ tử của Đức Phật) đang đi lang thang tìm kiếm giáo pháp giải thoát, thì Upatissa trông thấy trưởng lão Assaji (một trong năm đệ tử đầu tiên của Bậc Đạo Sư) đang đi khất thực. Upatissa rất chú ý đến phong cách cao cả của vị trưởng lão. Nghĩ rằng bấy giờ không phải là lúc để tìm tòi hay dò hỏi, Upatissa theo vị trưởng lão Assaji đi về chỗ nghĩ ngơi của ngài, rồi mới đến chào và hỏi thăm về giáo lý của bậc Đạo Sư. Trưởng lão Assaji có hơi miễn cưỡng khi phải nói nhiều nên ngài đã nói một cách khiêm hạ: “Tôi không thể trình bày tỉ mỉ giáo pháp và giới luật đầy đủ, nhưng tôi có thể nói cho ngài nghe ý nghĩa vắn tắt của nó.” Câu trả lời của Upatissa rất thú vị: “Vâng, thưa Đại Đức, hãy nói ít nhiều đi. Điều tôi muốn nghe là ý nghĩa của nó. Tại sao phải nói nhiều lời?” Thế rồi ngài Assaji lặp lại một bài kệ bao gồm toàn bộ giáo lý về nhân quả Đức Phật đã dạy:

    “Các pháp có nguyên nhân           

    Nên Như Lai thuyết nhân

    Sự đoạn diệt nguyên nhân Như Lai cũng đã thuyết

    Đó là lời dạy của bậc Đại Sa Môn.”

    Ngay lập tức Upatissa nắm được nghĩa lý của nó và giác ngộ bậc sơ thiền, triệt ngộ được “bất cứ gì thuộc bản chất của sinh cũng thuộc bản chất của diệt.”

    Dù cho có nói hay thảo luận nhiều bao nhiêu mà không hướng đến chánh kiến vẫn sẽ không dẫn chúng ta đến chỗ giải thoát. Điều cần thiết là sự hướng dẫn đúng và hiểu biết đúng. Chúng ta có thể rút ra những lời dạy đúng đắn từ thiên nhiên, từ cây cối, bông hoa, từ sỏi đá, từ dòng sông. Có nhiều trường hợp cho thấy người xưa ngộ đạo và giải thoát khỏi uế nhiễm chỉ do ngắm một chiếc lá rơi, một dòng nước chảy, một khu rừng bốc lửa, một ngọn đèn phụt tắt. Nó đã tạo nên sự hoà điệu trong lòng họ, và khi nhận ra được cái bản chất vô thường của vạn pháp, họ đạt đến giải thoát. Phải, hoa sen đang chờ ánh mặt trời và ngay khi mặt trời chiếu sáng thì hoa nở và mang niềm vui đến cho mọi nhà.

    Ở đây giáo lý của Đức Phật không cố gắng thăm dò đến tận cái khởi nguyên tột cùng của người và vật, không cố truy đến câu hỏi: “Vũ trụ là vĩnh cửu hay không vĩnh cửu? Là hữu hạn hay vô hạn?”

    Đức Phật không quan tâm đến những vấn đề siêu hình đó, vì chúng chỉ làm rối rắm con người và đảo lộn sự thăng bằng tâm trí họ. Câu trả lời của chúng chắc chắn sẽ không giải thoát được con người ra khỏi đau khổ và bệnh tật. Đó là lý do tại sao Đức Phật do dự khi trả lời những câu hỏi như thế, và đôi khi Ngài dừng lại không giải thích những câu hỏi lệch lạc của con người. Đức Phật là một bậc thầy thực tiễn; mục đích duy nhất của Ngài là giải thích cặn kẽ chi tiết vấn đề dukkha - khổ, sự kiện phổ quát của đời sống, làm cho con người cảm nhận được toàn bộ sức mạnh của nó và làm cho họ tin vào chân lý đó. Ngài nói một cách rõ ràng với chúng ta điều gì Ngài cần giải thích và điều gì Ngài không giải thích.

    Tuy nhiên, một số học giả không đánh giá đúng đắn thái độ này của bậc Đạo Sư, họ lại còn nghi ngờ sự chứng ngộ của Ngài và gán cho Ngài là người theo thuyết bất-khả-tri. Các học giả cứ hay tranh luận và suy đoán, điều này không phải chỉ mới hôm nay hay hôm qua, mà chúng đã phát sinh từ thời Đức Phật còn tại thế. Chẳng hạn ngay khi Sakuludàyi, một du sĩ, hỏi về quá khứ và tương lai, câu trả lời của Đức Phật có tính cách khẳng định:

    “Hãy để mặc hiện tại, để mặc tương lai, ta sẽ dạy ông Giáo Pháp:

    Khi cái này có cái kia sẽ có,

    Do cái này sanh, cái kia sanh,

    Khi cái này không có, cái kia sẽ không có,

    Do cái này diệt, cái kia diệt.”

    Tóm lại, đây là thuyết nhà Phật về Nhân duyên hay lý Duyên Sinh (paticca samupàda), xây dựng nền tảng của Tứ Diệu Đế, khái niệm trung tâm của đạo Phật.

 

***


(1). S. iii. 138.     

(2). Dhp. 160.      

(3). M. 38.           

(4).  Dhp. 276.     

(5). M. 26.           

(6). A-la-hán trong tiếng Phạn là “Bậc Ứng Cúng”, một trong nhưng danh hiệu đặc biệt để chỉ cho Phật và các đệ tử đã chứng ngộ của Ngài. Kinh sách đã cho thấy Đức Phật là người đầu tiên đã dùng thuật ngữ này để chỉ Phật. Đó là lúc Đức Phật đang du hành từ Gayà đến Vàrànasì để thuyết bài pháp đầu tiên cho nhóm năm đạo sĩ Kiều Trần Như. Trên đường đi chưa cách xa Gayà mấy, Đức Phật gặp Upaka, một tu sĩ ngoại đạo, vị này bị bất ngờ trước dáng vẻ thanh khiết của Bậc Đạo Sư, nên đã hỏi Ngài: “Đạo Sư của Ngài là ai? Ngài đã thọ pháp của ai?” Đức Phật đã trả lời bằng những câu kệ sau:... “Ta chính là Bậc Ứng Cúng trên đời, bậc Đạo Sư Vô thượng”. Ngài dùng từ A-la-hán lần thứ hai khi thuyết pháp cho nhóm năm đạo sĩ như sau: “Ta là Bậc A-la-hán, Như Lai, Chánh Đẳng Giác”. Từ này chỉ được dùng để chỉ các bậc đã đoạn tận lậu hoặc. Theo nghĩa này, Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên trên thế gian như Ngài đã tỏ lộ cho Upaka biết.    

(7). D. 16. Kinh Đại Bát Niết Bàn.       

(8). D. 16.            

 
00:00