Chương 3: ĐẠO THẦY TRÒ

Giảng ngày 20-11-2011 tại chùa Xá Lợi
Phiên tả: Nguyễn Thị Mai


 

I. ĐẠO LÀM HỌC TRÒ

    Ngày 20 tháng 11 là ngày nhân dân Việt Nam tôn vinh các bậc thầy cô giáo từ cấp sơ tiểu học đến bậc đại học và hậu đại học nói chung. Lễ hội nhà giáo là cách trực tiếp ghi công đức cho việc truyền trao những chìa khóa tri thức, nhằm giúp thế hệ kế thừa có thể tiến xa và vững vàng trên con đường lập nghiệp. 

   Sự phát triển của một quốc gia lệ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực tri thức của nước đó. Các quốc gia tiên tiến hiện nay được xem là dẫn đầu về giáo dục trên toàn cầu, nguồn ngân sách mà chính phủ họ đầu tư cho giáo dục khá ấn tượng. Nhân cơ hội này, tôi xin chia sẻ đề tài “Đạo thầy trò” trong kinh Thiện Sanh.

   Bản kinh Thiện Sanh, đức Phật nêu ba tương quan gia đình và ba tương quan xã hội, phác họa bức tranh tổng quát về đạo đức gia đình và xã hội theo quan niệm Phật dạy. Ra đời trong bối cảnh văn hóa của Bà la môn giáo tồn tại trước đức Phật hàng nghìn năm, đức Phật vẫn có cái nhìn rất độc lập về quan niệm nhân sinh, thế giới, đạo đức, và tâm linh. Nghiên cứu bài kinh Thiện Sanh, ta thấy rõ chủ nghĩa nhập thế của đức Phật được trải rộng dài qua các quan niệm về cá nhân, gia đình, xã hội, cộng đồng, quốc gia và toàn cầu.

   Với tương quan đạo thầy trò, đức Phật nêu ra năm trách vụ đạo đức mà tất cả học viên, dù ở bất kỳ cấp học nào, đều phải tuân thủ như nghĩa vụ vừa học lễ, vừa học đức, vừa học văn. Đáp lại, đức Phật cũng dạy năm trách vụ đạo đức mà tất cả thầy cô giáo, những người đại diện cho ngành nghề thiêng liêng nhất trên cõi đời này cần phải cam kết để đảm bảo chất lượng đào tạo đầu ra cho thế hệ kế thừa.

   1. Hầu thầy và giúp những thứ cần

       Truyền thống giáo dục thời đức Phật buộc tất cả học trò phải đến tận nhà để học. Hiếm nơi nào may mắn trang bị đủ bàn ghế, phương tiện giáo dục như thời hiện đại này. Truyền thống giáo dục của Bà la môn giáo cũng đặt trên cơ sở đó. Upanishad, một tác phẩm quan trọng của triết học Bà la môn giáo, có nghĩa đen là ngồi bên cạnh thầy để học hỏi điều minh triết. Do đó truyền thống học ngày xưa đòi hỏi việc gần gũi. Học từ cái ăn, cái nói, cái gói, cái mở của thầy cô. Dĩ nhiên để mối tương quan đó tốt đẹp, học trò phải có nghĩa vụ làm thị giả, trợ giúp thầy cô giáo những việc cần thiết, để thầy cô khỏi bận tâm làm công việc khác.

       Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn ở thời kỳ bão giá ngày càng tăng tốc, trong khi tiền lương của giáo viên, giảng viên lại quá thấp. Khắp nơi, Sở giáo dục than phiền rằng nếu không cải thiện chế độ tiền lương thì có lẽ trong năm hoặc mười năm nữa, Việt Nam sẽ không còn giáo viên giỏi đứng lớp để truyền trao chìa khóa tri thức cho thế hệ kế thừa. Bởi vì với đồng lương ít ỏi như hiện nay, phần lớn thầy cô giáo sẽ không còn thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu cập nhật kiến thức, giúp học sinh, sinh viên giỏi hơn mình, mà họ phải đi làm thêm. Nhiều nơi ép buộc học sinh, sinh viên học thêm; còn nếu không có các công việc phụ trợ này thì khó tồn tại, đứng nghề, hay bám nghề để giữ sự nghiệp thanh cao này.

       Từ năm 1984 đến 1986, tôi học cấp ba tại trường trung học Trần Khai Nguyên, quận 5. Lúc đó, một số thầy cô giáo là Phật tử thường đến thăm chùa Giác Ngộ. Họ đã kể lại những khó khăn mà nhà giáo phải cùng chịu đựng và chia sẻ. Để có thêm nguồn thu nhập, họ phải bốc thăm giành quyền giữ xe cho học sinh của mình. Thầy cô giáo dạy buổi sáng sẽ giữ xe buổi chiều, và thầy cô giáo dạy buổi chiều giữ xe buổi sáng. Số còn lại thì giữ xe vào ca đêm. Ngoài công việc đó, họ hầu như khó tìm được nguồn thu nhập khác. Không phải thầy cô giáo nào cũng may mắn có năng lực hướng dẫn làm cho học sinh thích thú và theo học tại các lớp học thêm. Như vậy, đi tìm nguồn thu nhập ngoài việc dạy thêm hay giữ xe là việc rất khó khăn. Tình trạng đó ngày nay đã được cải thiện. Nhiều thầy cô giáo đã cố gắng làm một nghiệp vụ nào đó, hoặc dạy thêm một môn nào đó, nếu thành công có thể tăng thu nhập.

       Việc đi dạy thêm, làm thêm đều khiến giáo viên không còn đủ thời gian nghiên cứu và cập nhật tri thức. Trong giai đoạn phát triển vũ tốc hiện nay, nếu ngừng cập nhật tri thức, thầy cô giáo có thể bị lạc hậu, là điều mà chúng ta không thể tránh.

       Một số nước phương Tây có khuynh hướng buộc giới giáo sư, giảng viên nổi tiếng tại trường đại học, trong mỗi năm phải ra một đầu sách mới ở lĩnh vực mà mình giảng dạy. Yêu cầu này là một thúc bách, buộc tất cả những người tham gia công việc đứng lớp, lúc nào cũng phải trang bị cho mình những chìa khóa vạn năng hơn những kiến thức mà sinh viên có thể thu thập từ sách vở và phương tiện truyền thông. Vì lý do đó, đức Phật dạy học trò phải giúp thầy cô những thứ cần, để họ khỏi bận tâm đi làm thêm.

       Lương bổng của giáo viên, giảng viên ở những quốc gia tiên tiến, mặc dù không đủ để biến họ thành người giàu như hạng thương gia, nhưng cũng đủ để họ an tâm vì đã có nhà cao cửa rộng, tiện nghi đủ đầy. Thậm chí nhiều trường cấp phát khu nhà ở cho giáo viên, giảng viên thâm niên để họ khỏi vất vả đi xa mà đầu tư thời gian dạy cho sinh viên của mình. Các giảng viên đại học phải có mặt ở trường từ bảy tám giờ sáng đến năm giờ chiều như làm việc hành chính, mặc dù ngày hôm đó chỉ dạy một hoặc hai tiết. Chính sách này giúp giáo viên, giảng viên có thời gian đầu tư cho những thắc mắc, hướng dẫn luận văn, luận án, các bài nghiên cứu. Như vậy, ngành giảng dạy được đầu tư trọn vẹn, chứ không cho bất cứ việc gì khác.

       Dĩ nhiên lời dạy đầu tiên này của đức Phật rất khó thực hiện trong giai đoạn hiện nay, ngoại trừ môi trường nội trú, nơi thầy cô giáo cũng ở nội trú, thì việc trợ giúp lẫn nhau có lẽ dễ thực hiện. Mặc dù vậy, thế hệ học sinh vẫn phải nỗ lực chia sẻ, giúp thầy cô giáo đỡ nhọc công làm những việc bên ngoài.

   2. Cung kính cúng dường đảnh lễ

       Đây là quy định về thái độ ứng xử đối với thầy cô giáo. Cách đây vài ba hôm, báo chí đưa tin, một chủ tịch hội phụ huynh đã rượt đánh cô giáo chủ nhiệm, vì cô giáo phạt sai luật đối với học trò là con ruột của vị chủ tịch hội phụ huynh này. Ông bức xúc, lời qua tiếng lại và có những hành động trở nên phản cảm với ngành giáo dục vốn rất trọng lối ứng xử, đạo đức và nhân cách con người.

       Học trò dù lớn tuổi hơn thầy giáo cũng cần được hướng dẫn về thái độ tôn trọng và quí mến người giảng dạy mình, thì người giảng dạy mới dễ dàng trao chìa khóa tri thức một cách nhiệt tình, không giấu giếm. Đường đi của tri thức rất mênh mông. Nếu chúng ta biết và đi đúng quỹ đạo thì thời gian đầu tư ngắn, nhưng kết quả lợi lạc nhiều, và ứng dụng trong xã hội ngày càng cao. Chỉ cần người trao chiếc chìa khóa đúng, ta khắc phục và tiết kiệm rất nhiều thời gian so với nỗ lực cá nhân.

       Chẳng hạn trong lĩnh vực tin học, để nắm rõ một thao tác nào đó; bằng con đường tự học, ta phải tra khảo các phần mềm tiếng Anh, hoặc mua những quyển sách hướng dẫn bằng tiếng Việt; phải mất vài ba ngày đọc chú thích, tóm tắt, sau đó mới tiến hành làm. Trong khi đó, nếu ta được một người có kinh nghiệm truyền trao thì chỉ trong khoảng vài phút, ta đã có thể nắm bắt tuần tự các bước trước sau. Tự học là để đào sâu và nâng cao; còn những hỗ trợ mang tính cách gợi mở, hướng dẫn để đỡ mất thời gian mà vẫn có kết quả. Vì vậy, ta cần phải nhờ vào thầy cô giáo nhiệt tình, có trách nhiệm truyền trao tri thức.

       Thái độ tôn trọng lễ nghĩa sẽ giúp các học trò được thầy cô giáo mến thương, từ đó việc truyền trao và tiếp nhận diễn ra theo một văn hóa lịch sự và có ý nghĩa trong kiếp người.

       Ở thế giới phương Tây, thầy cô giáo có quyền tuyệt đối cao hơn. Sinh viên nào thể hiện thái độ bất kính khiến thầy cô giáo không hài lòng có thể mời ra khỏi lớp. Tại các quốc gia tiên tiến như Hoa Kỳ, việc điểm danh diễn ra hàng ngày, ngược lại hoàn toàn với lời đồn đại trong dân gian Việt Nam và những nước đang phát triển, rằng thầy cô giáo ở thế giới tự do không cần điểm danh, nhằm tạo ý thức trách nhiệm của học viên. Người phương Tây quy định, vắng học bao nhiêu tiết sẽ không được thi tín chỉ môn đó. Học viên phải ghi danh học lại. Điều này cũng là một cách tôn trọng tri thức của thầy cô giáo. Dĩ nhiên có một số sinh viên, học sinh xuất sắc, chưa học đã biết, học ít mà hiểu nhiều, tự nghiên cứu cũng có thể trở thành người giỏi; nhưng việc tôn trọng thầy cô giáo bằng thái độ chăm chú lắng nghe, đặt câu hỏi ý nghĩa, khai thác các góc cạnh sẽ tạo thêm hứng thú cho người giảng dạy, từ đó người giảng dạy lại truyền trao cảm hứng học tập cho người học. Còn tôn trọng, cung kính theo dạng bắt đâu ngồi đó, không đưa những thắc mắc, không muốn đào sâu thêm tri thức, ù lì, thụ động, thì chắc chắn đó không phải thái độ cung kính trên tinh thần Phật dạy.

       Đức Phật còn dạy đảnh lễ. Dĩ nhiên đảnh lễ của ngày xưa không giống ngày nay. Theo văn hóa Ấn Độ, để bày tỏ lòng tôn kính đối với ai, người Ấn Độ thường cúi thấp người xuống, đặt lòng bàn tay phải của mình lên mô bàn chân người đó; rồi đưa tay đặt lên trán của mình. Chân là công cụ bước đi, có thể giẫm đạp bợn nhơ, do đó thể hiện lòng tôn kính như thế được xem là nể trọng nhất. Đức Phật vẫn khích lệ các học trò thể hiện lòng tôn kính đó.

       Nếu có điều kiện thì cúng dường, điều này hoàn toàn khác với đút lót, hối lộ để xin điểm. Cúng dường cần được thực hiện tập thể và công khai trên lớp. Chúng ta có thể quyên góp giúp đỡ thầy cô giáo vào những dịp cần thiết. Hiện nay nhiều quốc gia cấm lễ nghĩa này, vì nó đôi khi bị lạm dụng trở thành hủ tục, dẫn đến việc thầy cô giáo không còn công tâm trong giảng dạy, có thể lộ đề cho một số học viên thân thiết.

   3. Khát ngưỡng cầu học không chán

       Ở đây nói về thái độ học tập. Tri thức là vô tận, con đường đến tri thức cũng rất nhiều. Mỗi thầy cô giáo là một con đường giúp ta trải nghiệm các khía cạnh tri thức. Cùng một chương trình đào tạo, cùng một sách giáo khoa được ấn định nhưng phương pháp sẽ giúp học viên có khát ngưỡng để học, và điều này lệ thuộc vào kỹ năng được huấn luyện cũng như kỹ năng sáng tạo của từng người.

       Ngày nay, giáo viên được trang bị nhiều phương tiện kỹ thuật số; thuyết trình, giảng dạy với sự hỗ trợ của máy phóng ảnh, âm thanh minh họa, giúp người học dễ dàng theo dõi nắm bắt, và nhớ bằng sự ghi chép ngắn gọn có hệ thống của bản thân, điều đó cũng truyền cảm hứng cho việc học. Khát ngưỡng được học, cầu học không chán trở thành động lực cho người giảng dạy sẵn sàng cống hiến thời gian, tâm huyết kiến thức của mình. Học trò nào có cảm hứng học tập như vậy, dù lớp chỉ lác đác vài học viên, thầy cô giáo vẫn truyền trao một cách nhiệt tình.

       Giáo dục đại học ở nước ngoài có một số khoa hiếm học viên đăng ký. Đó thường là những khoa khó. Dĩ nhiên trường phải bù lỗ cho những ngành học như thế, nhưng người ta vẫn sẵn sàng duy trì vì kiến thức đấy không thể bị tuyệt chủng giống như các loài sinh vật quý. Ngành càng khó, như leo núi càng cao, ôxy càng loãng, khách bộ hành càng ít, đó là quy luật hiển nhiên. Để có được những giáo sư đầu ngành, giỏi ở những lĩnh vực vừa nêu lại càng hiếm. Trường phải đề ra chính sách đãi ngộ với chế độ lương bổng và tiền thưởng cao nhằm thu hút giáo sư, giảng viên giỏi về lãnh vực hiếm này. Do đó khát ngưỡng cầu học là yếu tố quyết định cho một lớp học thành công.

   4. Kính thuận những điều thầy dạy

       Nghĩa là ta có thái độ nể trọng kiến thức mặc dù đôi lúc những kiến thức ấy, ta đã hiểu, đã nắm bắt thông qua sự tìm tòi, nghiên cứu trước tại thư viện trường hoặc internet. Rất nhiều trường nổi tiếng có hoạt động liên thư viện, từ một trường ở bang này với một hoặc nhiều trường ở bang khác. Liên thư viện còn được áp dụng ở một số trường lớn giữa quốc gia này với những quốc gia khác, nhằm giúp giới sinh viên có cơ hội tiến sâu, tiến xa trong lĩnh vực chuyên môn mà tại nơi mình đang học, do những điều kiện về tài chính, nhà trường chưa trang bị; hoặc có thể những tài liệu quí hiếm này thuộc về dạng không còn tái bản. Việc chia sẻ đó chỉ bằng cách nối kết liên thư viện.

       Dân gian có câu, “cung kính bất như phụng mệnh”, chúng ta có nể trọng thầy cũng không gì bằng cách ta ứng dụng lời dạy được tiếp thu để làm giàu đời sống tri thức và làm giàu đời sống văn hóa của chính ta.

       Đại học Nalanda của Phật giáo đại thừa tại Ấn Độ, cách Bồ Đề đạo tràng khoảng 80km, được xây dựng vào thế kỷ thứ V, là trường đại học đầu tiên trên thế giới. Đại học này đã được trùng tu hai lần, lần thứ nhất vào thế kỷ thứ VII, lần thứ hai vào thế kỷ thứ IX. Đến cuối thế kỷ thứ XII bị Hồi giáo đập phá nát và đốt cháy thư viện chín tầng. Thời gian cháy thiêu rụi cả thư viện kéo dài đến sáu tháng. Ngài Đường Huyền Trang đã đến học tại đây sáu năm, vào đầu thế kỷ thứ VII và có khoảng năm năm làm giáo sư lỗi lạc của đại học Nalanda này. Vài chục năm đầu, số lượng sinh viên của trường là mười ngàn, số lượng giáo sư giảng viên là một ngàn năm trăm. Tỷ lệ về giáo sư và sinh viên như thế là quá tốt trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Diện tích của trường nằm trên chiều dài 15km và chiều rộng 10km. Cho đến hiện nay, người ta khai quật chỉ một phần mười diện tích vừa nêu. Tất cả sinh viên đã ở đây học từ năm thứ nhất đến lúc ra trường hoàn toàn miễn phí về nội trú. Chính phủ đạo Phật lúc bấy giờ tài trợ cho chương trình như quy mô vừa nêu. Để được nhập học, sinh viên phải trải qua mười kỳ thi trắc nghiệm vấn đáp. Bốn cổng của đại học Nalanda có bốn giáo sư lỗi lạc làm công tác phỏng vấn và đánh rớt rất cao. Tỷ lệ đậu chỉ khoảng năm phần trăm, và không có chuyện đút lót. Các giáo sư của trường Nalanda được trả lương hậu hĩnh, cho nên họ làm đúng chức năng và niềm tin mà ban lãnh đạo của trường giao phó.

       Khi đến tham quan, du khách dù là Phật tử hay không Phật tử thường được hướng dẫn viên địa phương nói đùa rằng, ngày xưa muốn vào học đại học Nalanda thì sinh viên phải có kiến thức giỏi thực sự, đậu kỳ thi trắc nghiệm vấn đáp, còn bây giờ muốn vào đại học Nalanda, chúng ta chỉ tốn 100 Rupi tiền vé vào cổng, (tương đương 2,5USD). Thời đó, sau khi nhập học, sinh viên được huấn luyện theo đạo đức giáo dục mà đức Phật dạy trong kinh Thiện Sanh. Những điều thầy dạy phải được trải nghiệm bằng các kỳ thi thực tập.

       Cũng như khi chúng ta tiếp nhận một điều hay lẽ phải nào đó, nếu cứ giữ nó dưới dạng tri thức thông thường thì nó không có giá trị cho ai, cho nên phải trải nghiệm bằng sự ứng dụng. Toàn bộ mười ngàn sinh viên trong khu vực trường đại học Nalanda và một ngàn năm trăm giáo sư kiểm tra đời sống, sinh hoạt và thực tập của họ.

       Mô hình xây dựng trong đại học Nalanda gồm phòng có cấu trúc hình vuông hoặc hình chữ nhật. Chính giữa hình vuông là giảng đường. Trong giảng đường có giếng nước. Trên bục cao hơn bên dưới, các học viên được khích lệ chất vấn để tiếp thu những điều hay. Khi đã tiêu hóa điều hay thì phải trải nghiệm nó trong đời sống sinh hoạt thường nhật. Mỗi phòng có diện tích khoảng hai mươi mét vuông. Năm đầu, sinh viên được ở ghép, hai người một phòng, gồm một sinh viên năm thứ hai trở đi và một sinh viên mới nhập học; thông qua đó việc truyền trao các kinh nghiệm tu học trong trường được tiếp nối. Đến năm thứ hai, thứ ba trở đi, mỗi sinh viên phải ở riêng một phòng để đầu tư thời gian trọn vẹn cho việc nghiên cứu. Dù là sinh viên đời, nhưng khi đã nhập học trong đại học Nalanda thì họ đều có cơ hội trải nghiệm thiền, thực tập tâm linh, và sống chuẩn mực. Cho nên, khi trưởng thành là một nhà giáo, những tri thức đạo đức và tri thức về điều minh triết Phật dạy đã thấm nhuần trong đời sống của họ. Và rồi, họ truyền trao chìa khóa tri thức với trách nhiệm cao nhất mà một nhà giáo cần có.

       Rất tiếc, chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo đã hủy diệt đập phá đại học Nalanda, phá nát hết phần lớn các công trình Phật tích tại Ấn Độ, các đền đài, chùa, miếu và giết hại tăng ni. Riêng Bồ Đề đạo tràng vẫn còn nguyên vẹn do không bị phát hiện, mặc dù chiều cao của tháp này trên bốn mươi mét. Người ta cho đó như một sự mầu nhiệm, hiểu theo nghĩa, giác ngộ là tâm điểm của Phật giáo, còn mọi thứ khác trên cuộc đời này đều bị luật vô thường chi phối, bị sự tàn phá của con người thách đố; nhưng sự giác ngộ vẫn được xem là bất diệt.

   5. Nhớ làm những điều đã học

       Để nhớ, người học cần có phương pháp ghi chú. Khi đọc sách cũng cần có phương pháp ghi chú. Ngày xưa phương pháp ghi chú là những chiếc thẻ, chiều dài khoảng một tấc rưỡi, chiều rộng khoảng một tấc đến một tấc hai. Kích thước của thẻ có thể nhỏ hơn tùy vào sở thích và văn hóa của từng nơi.

       Khi đọc một tác phẩm, ta ghi mã số của sách, tên tựa đề, các chương, số trang có nội dung cần ghi chú. Ta liệt kê những câu trích dẫn trực tiếp có nội dung quá sâu sắc, dù ta nỗ lực muốn viết khác đi cũng không thể hay hơn được. Ta ghi chú nó như một công cụ phục vụ cho ý tưởng của mình. Hoặc những câu mà nội dung của nó quá dở, nếu không phân tích sai lầm của nó thì những thế hệ đi sau sẽ ngộ nhận và chịu nhiều tác dụng phụ tiêu cực. Ta cần trích dẫn nguyên văn để phản ánh, giúp người sau tránh sai lầm tương tự. Do vậy đọc xong một quyển sách, người biết đọc sẽ phải mất cả chồng giấy, và mỗi khi tra khảo lại, phải tra từng thẻ, tốn rất nhiều thời gian.

       Ngày nay phương pháp này đã được hỗ trợ bởi công nghệ vi tính và internet. Phần lớn sách được đưa vào kỹ thuật số, ebook, hoặc dạng file trên mạng toàn cầu. Ta có thể download, copy rồi dán vào những tài liệu cần, cho nên việc ghi chép cũng không nhọc nhằn như ngày xưa. Ta có thể ghi chép vào văn bản Ms Word, mỗi khi cần ta chỉ đặt lệnh tìm kiếm để các dữ liệu đó xuất hiện. Hoặc chỉ cần một động tác gõ trên internet, vài giây sau ta có hàng nghìn đường link đối với những dữ liệu cần thiết mà ta đang tra cứu. Nhờ công nghệ internet, người học dễ dàng nhớ hơn, đỡ mất thời gian hơn.

       Người học không nên biến bộ não của mình trở thành thư viện, mà hãy sử dụng nó để xử lý các nguồn thông tin từ sách vở, từ thầy cô, và từ sự suy tư sáng tạo có phương pháp của bản thân. Ai lệ thuộc quá nhiều vào bộ nhớ và lạm dụng nó sẽ không phát huy được năng lực phân tích và sáng tạo trong học tập. Giáo dục chỉ mang tính chất gợi mở để người học đào sâu và tìm kiếm những nghiên cứu đầu tay hay nguyên thủy, từ đó đóng góp cho lĩnh vực. Muốn như vậy, kiến thức về phương pháp luận và kiến thức về ngôn ngữ gốc là hai điều không thể thiếu. Phương pháp giúp ta rút ngắn thời gian, hiểu sâu, hiểu toàn diện, hiểu trong mối tương quan liên ngành, giúp ta có nhận định chuẩn xác về từng vấn đề tri thức liên hệ đến lĩnh vực mình nghiên cứu. Bỏ phương pháp thì học hoài học mãi cũng chẳng đến đâu.

       Xử lý nguồn dữ liệu đòi hỏi tính khách quan, ta có thể áp dụng cách thức đơn giản sau:

       Đầu tiên, ta đóng vai người phản biện khi đọc một quyển sách nào đó. Ta cố gắng vạch lông tìm vết những lỗi sơ suất có thể có trong tác phẩm. Dĩ nhiên không phải để tấn công tác giả hay để khẳng định mình giỏi, mà vì mục đích đạt nguồn động lực mạnh và không dễ dãi trong việc thừa nhận các kết quả nghiên cứu được công bố của người khác. Nhờ đó sau một thời gian ngắn ta có thể phát hiện thêm nhiều điều mới.

       Bước hai, hãy đặt mình vào vai trò tác giả, được yêu cầu viết lại tác phẩm theo cách thức mới hơn. Lúc đó ta phải cố gắng tìm cách diễn đạt tương đương mà không trùng lặp văn. Bằng cách này, tự động ta ghi chép được những ý tưởng sáng tạo của bản thân.

Bước ba, đặt mình với tư cách một tác giả để cảm nhận những thuận lợi và khó khăn mà tác giả có thể có, bao gồm nguồn tài liệu, bối cảnh lịch sử, các công trình khảo cổ, nhân bản học,… vừa mới được khám phá. Như vậy tác giả đó phải có trách nhiệm tự hoàn thiện tri thức, hiệu đính, cập nhật thông tin.       

       Nhờ ba thái độ vừa nêu được áp dụng một cách nhuần nhuyễn trong quá trình đọc sách, ta tránh khỏi thái độ cực đoan phê phán, nhưng lại tìm ra lối giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo và mới mẻ hơn. Như vậy, tuy là người đi sau, ta vẫn có thể làm làn sóng sau đẩy làn sóng trước, giúp lĩnh vực đó ngày càng được cập nhật và tiến bộ. Đó là cách ghi nhớ.

       Khi ghi nhớ có phương pháp, ta dễ dàng thực hiện những điều đã học. Tiêu hóa một tri thức là điều khó, nhưng không khó đến mức không làm được. Vấn đề ở chỗ, đạo Phật dạy chúng ta chìa khóa tin vào tiềm năng có thể trở thành hiện thực. Ta có các kỹ năng thực tập dần dà làm quen thì ta có thể thành công trong lĩnh vực tương tự.

       Tổ Qui Sơn dạy: “Bỉ ký trượng phu, ngã diệc nhĩ. Bất ưng, tự khinh nhi thoái khuất”. Nếu trong đời đã từng có các bậc trượng phu, thì ta cũng có thể trở thành một trong số đó; do vậy không nên tự khinh mình bằng thái độ mặc cảm tự ti mà bỏ lỡ cơ hội, để trở thành kẻ thụt lùi phía sau. Lời dạy này hoàn toàn khác với “Trèo cao té đau”. Người trèo cao không đánh giá đúng năng lực của mình, không biết tiềm năng của mình, mà cứ tự bơm phồng giá trị bản thân; rốt cuộc víu với không đúng cách sẽ trở thành người bị rơi rớt. Còn lời dạy của Phật giáo khích lệ ta phát huy khả năng tiềm tàng bằng chiếc chìa khóa phương pháp và tri thức, để ta ngày càng tiến bộ hơn chính bản thân mình.

       Các vận động viên thể thao dù là vô địch toàn cầu, cũng đều nỗ lực phá kỷ lục của bản thân. Đó là thái độ tích cực. Người học cũng cần phá kỷ lục bản thân của mình. Nếu hôm qua, ta có một nguồn tri thức hay, nỗ lực lần đầu bị thất bại, thì ngày hôm nay ta phải rút kinh nghiệm, nỗ lực làm sao để thành công. Chiến thắng vượt qua bản thân là điều rất khó. Khi nỗ lực có phương pháp, ta sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Tiêu hóa tri thức rồi biến chúng trở thành những ứng dụng lại càng khó hơn, nhất là những tri thức về điều minh triết, đạo đức và đời sống tâm linh. Giữa tri thức và thực hành có khoảng cách rất lớn. Người chịu khó tìm hiểu và ứng dụng sẽ rút ngắn khoảng cách này lại trong phạm vi có thể cho phép đối với một người phàm. Còn những người xuất gia học Phật, phải thấy rõ mục đích của mình là trở thành thánh, cho nên nỗ lực hạn chế tối đa khoảng cách giữa tri và hành, biến chúng trở nên hợp nhất. Trong kinh đức Phật dạy, cái gì nói được cái đó làm được, cái gì làm được cái đó nói được. Làm được dẫn đến nói được không phải là chuyện dễ. Nói thuộc về nghệ thuật, làm thuộc về kinh nghiệm và quyết tâm cộng với phương pháp. Cho nên đức Phật thừa nhận giữa cái nói cần phải đi theo bằng cái hành; cái thực hành cần phải minh họa bằng cái nói để tri thức đúng trở thành một hiện thực, và hiện thực đó tiếp tục mồi đèn thắp sáng cho bao nhiêu thế hệ học hỏi về sau.

       Vai trò của tu sĩ Phật giáo là hướng dẫn tốt và thực tập tốt. Thực tập tâm linh tốt cộng với kỹ năng hướng dẫn giúp người nghe dễ dàng hiểu và hành trì.

       Trong năm trách nhiệm đạo đức của người học, theo đức Phật, trách nhiệm thứ năm quan trọng nhất. Kiến thức suông, kiến thức thiếu ứng dụng, kiến thức chỉ để học mà biết sẽ chẳng phục vụ gì cho ai. Do vậy tránh tình trạng thái cực đầu tư vào việc học mà chẳng làm bất cứ một việc gì. Nhiều người treo trên bức tường nhà họ đầy kín các bằng cấp, văn bằng, chứng chỉ. Khóa học nào họ cũng có mặt, học đến đâu đỗ đạt đến đó nhưng nguồn tri thức ứng dụng lại hoàn toàn thiếu, cho nên học để hãnh diện, học để đốt thời gian. Ở hải ngoại người ta khích lệ việc học, ai thất nghiệp mà đi học sẽ được hưởng tiền trợ cấp. Điều đó dẫn đến tình trạng, nhiều người thích ăn trợ cấp, cứ đăng ký đi học để có bằng, chứ không phục vụ gì cho ai. Đó là những quan niệm lạc hướng trong việc học.

II. ĐẠO LÀM THẦY CÔ GIÁO

   Đáp ứng với trách vụ đạo đức của học viên, đức Phật khuyên đội ngũ thầy cô giáo, giảng viên, giáo sư cần thực hiện năm bổn phận sau:

   1. Huấn luyện đúng chân lý

       Chân lý trong mỗi lĩnh vực ngành nghề là hoàn toàn khác nhau. Đó là kiến thức mang tính phương pháp luận trong lĩnh vực mà các nhà nghiên cứu đầu nguồn đều phải thừa nhận không tranh cãi. Còn những kiến thức gì được khám phá công bố mà có nhiều tranh luận thì tính giả thuyết đó chỉ được xem như một dữ liệu tham khảo, chứ không phải kiến thức chuẩn hoặc kiến thức nền. Do đó, để tránh tình trạng huấn luyện sai nguồn tri thức, các thế hệ thầy cô giáo cần có lương tâm nhà giáo. Những gì đúng thì truyền trao, những gì không cam đoan đúng sự thật thì ta đưa ra như một giả thuyết. Sự cẩn trọng trong tình huống này giúp thầy cô giáo truyền trao tính trung thực trong nghiên cứu. Người học trò khi tiếp thu nguồn tri thức như thế cũng sẽ có sự cẩn trọng cần thiết.

       Ở những nước nghèo, khi tài liệu nghiên cứu còn thiếu thốn thì thầy cô giáo được xem là điểm tựa tri thức, truyền trao cái gì là ghi chép đầy đủ cái đó; ghi chép càng nhiều càng không sáng tạo. Còn trong thế giới tiến bộ, thầy cô giáo chỉ là nguồn dữ liệu tham khảo, cũng giống như các quyển sách trong thư viện, có loại sách mang giá trị tham khảo trực tiếp, nhưng cũng quyển mang giá trị tham khảo gián tiếp. Thầy cô giáo cũng vậy.

       Sở dĩ trong lĩnh vực nghiên cứu, người ta buộc phải như thế là để tránh ảnh hưởng uy tín của vị thầy đi trước. Nếu ta tin tuyệt đối rồi truyền bá nguồn tri thức sai, kéo từ thế hệ này sang thế hệ khác, thì việc tẩy não và điều chỉnh nhận thức sai lầm sẽ khó vô cùng, so với việc gieo một kiến thức mới có nội dung chuẩn. Do đó phải huấn luyện đúng phương pháp, đúng nguồn tri thức trong từng lĩnh vực.

       Muốn như thế, các giáo viên phải được học đến nơi đến chốn. Tại các nước nghèo đang phải đối diện với nạn khủng hoảng do lương bổng thấp, thầy cô giáo ra trường không có việc làm đã tạo nỗi ám ảnh với những người đi vào ngành sư phạm. Đầu vào sư phạm ngày càng ít, người ta đã phải hạ điểm chuẩn xuống thấp để có thêm thí sinh dự thi. Từ đó dẫn đến hậu quả, thầy cô giáo không chuẩn mực về tri thức, khiến cho thế hệ kế thừa bị ảnh hưởng. Thông thường thế hệ đi sau tiếp nhận nguồn tri thức trường lớp ít hơn thế hệ đang đứng lớp, ngoại trừ một số ít lĩnh vực đặc biệt, thì việc tiếp nhận đó đặc biệt hơn những người truyền trao.

       Như vậy, lương tâm tri thức giúp ta truyền bá những gì được xem là đúng, có tinh thần khách quan trong nghiên cứu khoa học. Tinh thần này yêu cầu ta bất chấp mình thuộc tôn giáo nào, hệ triết học gì, khuynh hướng chính trị xã hội ra sao; cái gì đúng ta phải thừa nhận, cái gì sai ta phải ghi nhận là sai.       

       Galilei từng tuyên bố những điều trái ngược với kinh thánh Cựu Ước của Do Thái, Thiên Chúa giáo và Tin Lành, nên đã bị đưa lên giàn hỏa mấy lần. Vì muốn sống để tiếp tục nghiên cứu khoa học; nên trước giàn hỏa, ông phải nói đúng với kinh thánh. Nhưng khi được thả ra, ông vẫn quả quyết vũ trụ không phải là cái nắp vung, chẳng có bầu trời như người ta đã nói trong kinh thánh; và trái đất không phải là mặt phẳng được nắp vung bầu trời che đậy. Quả địa cầu có hình bầu dục, vận chuyển theo quỹ đạo, dưới sự tương tác của hệ mặt trời và nhiều hệ mặt trời trong vũ trụ bao la. Đó là người có lương tâm tri thức khoa học, công bố những điều đúng. Cuối thế kỷ hai mươi, đức giáo hoàng John Paul đệ nhị đã phải đại điện cho toàn bộ giáo hội Thiên Chúa giáo xin lỗi gia đình Galilei và rửa tội cho ông, vì ông vốn không có tội nhưng bị giáo hội Thiên Chúa giáo kết tội.

       Nhà khoa học vật lý lỗi lạc Albert Einstein tuyên bố, trong tương lai nếu có một tôn giáo, tạm gọi là tôn giáo hoàn vũ, có thể đáp ứng cho xã hội loài người hai phương diện vừa khoa học vừa tâm linh thì đó chỉ là đạo Phật. Một người theo Anh giáo, giáo phái của Tin Lành, mà lại tuyên bố như thế, có thể nói rằng ông rất có tinh thần khách quan trong nghiên cứu khoa học về tôn giáo. Phần lớn chúng ta không có tinh thần như thế.

       Đức Phật dạy, thầy cô giáo cần phải truyền trao tri thức đúng. Cái gì đúng, chúng ta phải nói, không giấu giếm, không bao che, không tình cảm riêng tư mà phải vì lợi ích của toàn cầu.

   2. Dạy trò những điều chưa biết

       Đi học là để tiếp thu tri thức mình chưa hề biết. Do đó, học trò nào than phiền thầy này cô kia dạy khó hiểu, chứng tỏ ta vẫn còn rất dở. Khó hiểu vì đó là nguồn tri thức mình chưa biết đến, nó chính là động cơ để ta tiếp tục học. Còn chưa nói ra, ta đã biết thì học phỏng ích gì. Càng học càng thấy thắc mắc nhiều và hầu như thế giới là cái gì đó kỳ lạ. Đó mới là dấu hiệu của sự tiến bộ.

       Ngạn ngữ phương Tây nói, khi chưa học thấy mình biết rất nhiều, khi vừa học chút ít liền thấy mình vẫn biết khá; nhưng đến khi học thật cao và sâu mới thấy mình chẳng biết bao nhiêu. Từ đó trở nên khiêm tốn hơn. Nguồn tri thức của con người là vô tận như vũ trụ bao la này. Sinh ra trên cuộc đời thêm tỉ tỉ kiếp, ngàn ngàn năm ánh sáng, ta vẫn không thể nào học hết được nguồn tri thức cần có cho lĩnh vực chuyên môn và đời sống gia đình. Cứ mỗi tích tắc trôi qua, trên hành tinh xuất hiện hàng trăm bằng phát minh, sáng kiến được đăng ký tác quyền. Do đó sẽ rất ngớ ngẩn nếu thầy cô lên lớp truyền trao những kiến thức mà học sinh đã biết rồi.

       Để truyền trao kiến thức chưa biết, thầy cô giáo phải đọc sách nhiều hơn học trò, nghiên cứu nhiều hơn, có trách nhiệm với tri thức khách quan và tri thức khoa học, chứ không phải lên lớp giảng tràng giang đại hải nhằm chứng tỏ mình giỏi. Theo đức Phật trong kinh Tương Ưng, thầy cô giáo cũng như giới tu sĩ truyền trao những chiếc lá trong tầm tay thay vì giới thiệu những chiếc lá trong rừng. Lá trong tầm tay là những chiếc lá có chọn lọc, có giá trị thực tiễn, cần thiết cho việc học, học xong có thể ứng dụng. Trên nền tảng của những chiếc lá này, học trò có thể nghiên cứu các chiếc lá khác mà mình cần. Như vậy, chúng ta phải chắt chiu chọn lọc, mà sách giáo khoa từ lớp mười hai trở xuống đã làm công tác đó. Dĩ nhiên có những sách giáo khoa quá cao so với trình độ của học viên, khiến học viên phải bơi, phải chạy hỏa tốc mới có thể đáp ứng được chương trình, dẫn đến tình trạng bị căng thẳng.

       Bốn năm thuyết giảng tại Hoa Kỳ, trung bình hai tháng một lần, tôi tiếp xúc rất nhiều với các bậc phụ huynh và họ đều nói rằng, con em của họ khi mới từ Việt Nam đang học lớp bảy, sang Mỹ học lớp tám vẫn thấy kiến thức lớp tám thấp hơn trình độ lớp bảy ở Việt Nam. Đó là chưa kể số lượng môn ở Việt Nam quá nhiều so với các quốc gia tiên tiến. Ở những nước tiên tiến, từ lớp mười hai trở xuống, người ta không nhồi sọ, không bắt học sinh học quá nhiều kiến thức thuộc lòng. Từ cấp cử nhân trở lên thì sự truyền trao tri thức nhiều hơn, phương pháp hơn, nền tảng hơn thì sinh viên Việt Nam bắt đầu thua kém hơn sinh viên da trắng. Đến cấp thạc sĩ, sinh viên Việt Nam bị bỏ xa ở đại đa số. Đến cấp tiến sĩ, sinh viên Việt Nam bị rơi rớt đáng kể; và hậu tiến sĩ thì chẳng còn bao nhiêu sinh viên Việt Nam đáp ứng yêu cầu. Lý do ta bị nhồi sọ quá tải nguồn tri thức không cần thiết, cho nên bộ não phát triển sớm, đè nặng lên ký ức. Việc sử dụng bộ não sai phương pháp này khiến học sinh bị khựng lại ở tuổi phát triển về sau.

       Học là tiến trình chạy marathon chứ không phải chạy cự ly ngắn 100m, cho nên chương trình học cần phải được cải cách. Đó là chưa kể hiện nay, ngoài chương trình nhồi sọ, các em phải học thêm từ sáng đến chiều tối, không còn thời gian thư giãn và “tiêu hóa” kiến thức vừa tiếp nhận. Vì vậy, thầy cô giáo nên truyền trao kiến thức vừa phải, và kiến thức đó là những điều rất mới cho thế hệ học trò.

   3. Giải rõ những điều thắc mắc                                                                                                                                    

       Trong truyền thống Phật học Trung Quốc có câu: “Tiểu nghi tiểu ngộ, trung nghi trung ngộ, đại nghi đại ngộ”. Thắc mắc ít, nghi tình ít thì sự giác ngộ ít; thắc mắc nhiều nghi tình nhiều thì sự giác ngộ nhiều. Thắc mắc và nghi tình này đạt được trong quá trình trải nghiệm sự mở khai tuệ giác của tâm, chứ không phải đi tầm cầu nguồn tri thức bên ngoài. Do đó ta phải luôn đề khởi những gì chưa biết bằng hàng loạt dấu hỏi lớn, chẳng hạn “Tại sao nó như thế mà không phải là cái khác?”. Việc đặt câu hỏi về tính chất của sự vật sự việc sẽ giúp ta phanh phui manh mối gốc rễ, mà thông qua bài kinh Chuyển Pháp Luân, đức Phật cho đó là cách giải quyết tốt nhất các vấn nạn cá nhân, gia đình, xã hội, cộng đồng, quốc gia và toàn cầu ở quá khứ, hiện tại, lẫn vị lai, từ đại cương đến chi tiết, từ việc lớn đến việc nhỏ. Thừa nhận bế tắc khổ đau là một vấn đề; kế đến truy tìm nguyên nhân để khắc phục hậu quả; thừa nhận hạnh phúc đạt được từ việc tháo mở bế tắc; và thực hiện nó bằng con đường bát chánh.

       Giáo dục ngày nay nếu áp dụng qui trình Tứ Diệu Đế của đức Phật thì chắc chắn sẽ không có cái gì không làm được. Muốn như vậy, thế hệ học trò phải biết thắc mắc và đặt câu hỏi. Giáo dục tiên tiến luôn khuyến khích đặt câu hỏi. Người giảng dạy chỉ truyền trao gợi ý. Trong kinh đức Phật thường sử dụng phương pháp vấn đáp, chiếm khoảng sáu mươi phần trăm tổng số bài kinh. Ngài không giảng tràng giang đại hải như trong các bản kinh đại thừa dành cho hàng Bồ tát, mà Ngài thường hỏi, ví dụ: “Này, A Nan, thân thể này là sở hữu của ai?”. A Nan đáp “Thân thể này không phải là tôi, không phải là sở hữu của tôi, không phải là tự ngã của tôi”. Khi A Nan đại diện cho cộng đồng học trả lời thì rõ ràng người học sẽ dựa trên thắc mắc, rồi giải quyết thắc mắc của mình bằng câu hỏi phản ngược từ người giảng dạy. Đó là cách gợi mở. Tri thức thông qua sự gợi mở rất sáng. Khi đã hiểu, học viên sẽ nhớ đến đời, thậm chí chết mang theo trong sinh tử luân hồi.

       Phần lớn các kỳ thi tuyển sinh tại Học viện từ năm 2006 do chúng tôi ra đề, một số thầy cô tăng ni sinh trẻ cũng đoán biết việc ấy. Khi chúng tôi vào lớp để kiểm tra, giám sát thi cử thì có sinh viên than: “Đề này khó quá làm không nổi!”. Dụng ý của họ không biết là gì, nhưng tôi chỉ trả lời: “Cái nào khó mới nhớ đời đời kiếp kiếp, nó chính là vốn liếng lâu dài”.

       Những gì ngoài tầm tri thức của bản thân sẽ tạo thành một câu hỏi lớn. Khi trở về sau ngày thi, ta giở lại sách vở nghiên cứu, tìm hiểu, nhờ tư vấn của những người đi trước để mở được vấn đề; lúc đó nó trở thành nguồn tri thức của chính mình. Muốn làm được việc ấy, học viên nên chịu khó ngồi ở những dãy ghế đầu để tạo sự tự tin. Phần lớn học sinh rụt rè và lười biếng chỉ thích ngồi ở dãy sau để khỏi bị điểm mặt chỉ tên. Ngoại trừ tình huống trong giảng đường, vì trong giảng đường không có thi cử nên ngồi đâu cũng được; còn trong học thì cố gắng ngồi ở những dãy ghế đầu để ta dễ dàng tập trung và truyền cảm hứng cho người giảng. Điều đó làm cho giảng viên có trách nhiệm hơn, nhiệt tình giúp ta khám phá những điều mới hơn.

       Học sinh, sinh viên giỏi ngoài việc hỏi tại trường lớp còn hỏi riêng thầy cô giáo. Nếu gặp được thầy cô giáo có trách nhiệm cao, chỉ cần gợi ý cho ta tác phẩm A, chương B từ trang mấy đến trang mấy nêu vấn đề đó một cách sâu sắc; ta về đọc lại là vỡ lẽ hết vấn đề, thay vì phải tìm tòi đọc thêm vài chục quyển sách khác. Việc chỉ điểm như thế thông qua một thắc mắc đưa ta tiến bộ nhiều hơn. Do đó phải giải rõ những thắc mắc có căn nguyên, có cội nguồn, phương pháp chứ không nói càn. Đừng cậy mình là thầy cô giáo, bắt người khác phải chấp nhận những gì mình nói là chân lý, việc đó không có trong nghiên cứu. Trong nghiên cứu, tất cả được xem là tính khả thể diễn ra theo hai hướng: đúng hoặc sai, không có hơi hơi đúng, hay suýt nữa sai. Hơi hơi đúng có nghĩa là sai, cái gì gần với chân lý thì không phải là bản thân của chân lý. Nửa cái bánh có thể ăn đỡ đói, nửa ly nước có thể đỡ khát, nhưng nửa chân lý thì không dùng được. Chân lý phải hoàn toàn, cho nên hãy giải đáp cặn kẽ tất cả những thắc mắc bằng tri thức đúng cho người học.

   4. Truyền trao không giấu nghề

       Việc này hơi khó, một số thầy cô giáo phải mất đến hai ba chục năm để có được lượng kiến thức quý hiếm nào đó, thậm chí tài liệu dẫn đến nguồn tri thức quí hiếm đó được họ giấu rất kỹ vì hơn thua nhau chỉ ở nguồn tài liệu. Họ có thể nghĩ rằng, mình đã tốn công, tiền bạc, thậm chí trả bằng xương máu, nên không lý gì lại đi truyền trao hết những gì mình có.

       Người Trung Hoa cũng vậy, đa số có thói quen giấu nghề. Họ dùng từ “nghề gia truyền”, tức cha mẹ truyền lại cho đứa con tâm đắc nhất trong nhà. Những đứa con khác chưa chắc được trao. Cứ như thế, nguồn tri thức quý hiếm trong lịch sử phát triển của loài người ngày càng mất dần theo năm tháng thời gian do những con người bỏn xẻn tri thức cứ khư khư giấu giữ nó, chưa kịp truyền trao thì đã bị vô thường kéo đi, thần chết gõ cửa. Trong các lọai bỏn xẻn, bỏn xẻn về tri thức là xấu nhất.

       Dân gian Việt Nam có câu, cho tài vật chứ không cho kiến thức tạo ra tài vật. Người ta sợ kẻ khác học được nghề thì mình sẽ bị cạnh tranh, mất tầm ảnh hưởng, bị thay đổi vị trí, và uy tín trong xã hội ngày càng giảm dần. Đó là nhận định ích kỷ và thiển cận.

       Ngày nay, ta thấy các khu chợ bán theo loại mặt hàng chuyên dùng, nếu chỉ có một tiệm bán thì lượng du khách và người đi chợ sẽ không nhiều. Vì có nhiều quầy bán cùng một mặt hàng, tính cạnh tranh cao nên du khách đến đông hơn. Vậy tính liên kết trong nhóm có cùng chủng loại, đầu tư cho cùng một nghề nghiệp hay công việc càng đưa xã hội phát triển hơn. Dĩ nhiên sự loại trừ nào cũng có cái giá đắt của nó.

       Tri thức cũng vậy, nếu ta truyền trao cho nhiều người thì nhiều người cùng gánh vác công việc thay thế cho ta. Nếu ta biết cấy tạo thêm nhiều cây rừng, thì những cây rừng mới giúp những cây rừng đã có chống lại phong ba bão táp, lũ lụt do thiên tai.

       Trong kinh Duy Ma, đức Phật dạy kỹ năng truyền trao tri thức qua hình ảnh vô tận năng. Từ một ngọn đuốc, ta thắp sáng sự truyền trao cho mười ngọn đuốc, rồi mười ngọn đuốc lại được nhân bản thành hàng trăm, hàng nghìn ngọn. Đức Phật dạy ta cách phân tích, số lượng n lần tức là vô cực ngọn đuốc được mồi thắp sáng có tính năng, không hề cướp đi cơ hội thắp sáng của ngọn đuốc đầu. Hay nói cách khác, ngọn đuốc đầu mồi như thế không có nghĩa nó bị tước đi cơ hội thắp sáng.

       Xã hội loài người khác với xã hội loài động vật ở chỗ có lòng tri ân và đền ơn. Dĩ nhiên cũng có một số người vô tình, bạc nghĩa, phản thầy, phản chủ, nhưng số lượng đó không đáng kể. Đừng vì vài con sâu mà biến cả nồi canh mất đi cơ hội sử dụng. “Mía sâu có mắt, nhà dột có nơi”, người xấu A không phải là người xấu B và ngược lại. Bằng tinh thần đó ta mới mở rộng nỗ lực truyền trao tri thức và hãnh diện tự hào với việc làm như thế.

       Đức Phật là người có tinh thần vô ngã trong truyền trao. Ngài dạy chân lý chính Ngài đạt được, không phải do Ngài sáng tạo ra nó. Ngài nói Ngài chỉ là người đi trên con đường tìm ra phương pháp, đến nơi đầu tiên, và công bố công trình đó bằng cách vẽ lại, hướng dẫn để mọi người cùng đến. Có Ngài hay không có Ngài, quá khứ chân lý cũng như vậy, hiện tại nó không hề thay đổi, tương lai nó vẫn như thế. Tứ Diệu Đế vĩnh viễn ba đời chư Phật phải nương vào để làm đạo, truyền bá, độ sinh, và giải quyết nỗi khổ niềm đau của kiếp người. Đó là sự khiêm tốn và vô ngã về tri thức khám phá. Ngài truyền trao không giấu nghề và cũng không bao giờ có tác quyền.

       Trong kinh Viên Giác, đức Phật khẳng định, bốn mươi chín năm thuyết pháp, Ngài chưa từng tuyên bố một lời nào. Thực tế Ngài đã thuyết giảng hơn ba trăm nghìn bài pháp thoại, kể cả những bài kinh ngắn. Không phải vì Ngài thiếu trách nhiệm nhân sự và pháp lý về những gì đã dạy. Chân lý của đức Phật siêu việt hơn tất cả các tôn giáo khác, điều đó không có gì bàn cãi. Ở đây, ý Ngài muốn nói rằng, chân lý là của chung chứ không phải của riêng Ngài. Ai cũng có quyền tiếp nhận nó, truyền bá nó, sở hữu nó và nguồn tài nguyên tri thức chân lý của đức Phật là vô tận, không sợ bị tranh giành. Vì thế, Ngài phủ định tính tác giả về chân lý của Ngài, để mọi người dễ dàng tiếp nhận mà không phải băn khoăn về tác quyền như chúng ta hiện nay.

   5. Giúp trò trưởng thành, hạnh phúc                                                                                                       

       Vai trò này giống như làm cha mẹ. Trưởng thành về tri thức, trưởng thành về nhân cách, trưởng thành về đạo đức là ba điều mà thầy cô giáo không thể bỏ qua.

       Ngày nay, sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình được phân định rõ, nhà trường quản lý tri thức và đạo đức của học sinh trong phạm vi trường lớp. Gia đình quản lý đạo đức, quan hệ dân sự, quan hệ luật pháp tại nhà cũng như ngoài xã hội. Do vì sự phân công đó mà phần lớn thầy cô giáo không hề bận tâm khi phát hiện học trò có thói quen sử dụng lời nói văng tục, hằn học, chua chát đối với bạn bè. Thầy cô xem nó không phải bổn phận cần điều chỉnh của mình. Dần dà các em trở nên hư đốn. Dù có kiến thức nhưng thiếu đạo đức thì về sau đi đến đâu, các em cũng sẽ ngạo mạn, hống hách, ngang tàng, không tôn ti trật tự, không biết tôn trọng ai, đó là mối đe dọa cho sự phát triển xã hội.

       Phương châm giáo dục của Việt Nam: “Tiên học lễ, hậu học văn” còn quá nhiều giới hạn. Lễ nghĩa chẳng qua chỉ ngoại giao, liên hệ đến văn hóa. Chẳng hạn, gặp thầy cô giáo khoanh tay cúi đầu chào; vào lớp, ra về đều thưa gởi. Đó là sự tôn kính thông thường. Đức Phật muốn cao hơn, Ngài giúp học trò mình trưởng thành về ba phương diện tri thức, nhân cách và đạo đức. Do đó thầy cô giáo cũng phải đóng vai trò như cha mẹ, khích lệ học sinh khắc phục điểm yếu kém, đặc biệt đối với học sinh nghịch ngợm, không biết tôn trọng bạn bè, không tôn trọng người truyền trao tri thức, chểnh mảng học hành.

       Cách đây vài hôm, Sở giáo dục Huế kỷ luật một giáo viên đã phạt học sinh bằng cách đánh đòn. Cô giáo này vốn đang chịu áp lực trong thai kỳ, cộng với áp lực đạt chỉ tiêu loại giỏi ở kỳ thi sắp tới, nên khi kiểm tra bài những học sinh không thuộc, cô đã dùng hình phạt đòn roi, một điều đại tối kỵ trong giáo dục. Trừng phạt không được cho phép, mà thầy cô phải khích lệ niềm đam mê học tập ở học sinh, giúp các em thấy rõ việc trưởng thành về tri thức bằng nỗ lực học, miệt mài học là một nhu cầu, là chiếc chìa khóa dẫn đến thành công.

       Dân gian dạy: “Mười năm đèn sách không ai biết. Đến lúc thành danh thiên hạ hay”, đó là qui luật. Ta cũng không thể trách cuộc đời này vô tình khi ta khó khăn trong học tập, không được trợ giúp; chỉ đến lúc thành công thì hàng vạn nhân duyên xuất hiện, kẻ mời mọc, người xin hợp tác. Cuộc đời là vậy. Vấn đề còn lại là trong suốt mười năm đèn sách ấy, ta phải biết ẩn mình.

       Một số người vừa học vừa làm, như thế hiệu quả sẽ không cao. Tuy có thể đỗ đạt nhưng không thể xuất sắc được. Còn vừa học vừa chơi lại càng khó thành công hơn. “Mười năm đèn sách không ai biết” nghĩa là mình tự giữ mình, chứ không phải lên án thái độ khinh thường của người đời. Ngày ngày ở giảng đường, giờ nghỉ ở thư viện, về nhà phụ giúp gia đình, chăm lo trách nhiệm bản thân; không la cà, chơi bời, hưởng thụ,… tính trách nhiệm với cam kết đó giúp ta trưởng thành về tri thức.

       Trưởng thành về nhân cách, ta phải học lễ, học văn hóa và tôn giáo. Ba phương diện này giúp ta phát triển nhân cách rất tốt. Đức Phật có hàng trăm, hàng nghìn bài kinh dạy về phát triển nhân cách. Nếu các bậc cha mẹ chỉ cần chọn lọc những câu danh ngôn Phật dạy, chẳng hạn 423 câu trong kinh Pháp Cú. Mỗi ngày ta tặng con mình một câu, đó là phương châm sống, để tư duy, thì lợi lạc biết chừng nào.

       Chùa Giác Ngộ đã xuất bản quyển sách “Trí tuệ của đức Đạt Lai Lạt Ma”, chia thành 365 ngày, trích dẫn từ hàng chục tác phẩm nổi tiếng của ngài, được thuyết giảng và ghi chép lại trong mấy chục năm qua. Mỗi ngày ta chỉ cần mở một trang, chiêm nghiệm suy nghĩ một câu, nó liền trở thành một món thực phẩm tinh thần cực kỳ quý giá, giúp ta phát triển nhân cách, khắc phục những yếu kém, vượt qua những thói quen, làm mới nhận thức và thay đổi được cuộc đời.

       Để phát triển đạo đức, thầy cô giáo cũng cần khuyên học trò của mình thực hành năm điều đạo đức Phật dạy:

              - Không giết người và động vật, bảo vệ hòa bình.

              - Không trộm cắp, chia sẻ sở hữu.

              - Không ngoại tình, chung thủy vợ chồng.

              - Không lừa đảo, có trách nhiệm đạo đức trong truyền thông, lịch sự, văn hóa, hòa hợp, đoàn kết, nói những lời có lợi.

              - Không rượu chè ma túy, cam kết bảo vệ sức khỏe cho mình và người thân.

       Ngoài ra, Thập Thiện trong đạo Phật cũng là nguồn dữ liệu đạo đức vô cùng quý giá. Nhiều quốc gia Hồi giáo, bao gồm Bangladesh, Pakistan đã đưa môn đạo đức Phật giáo trở thành môn học bắt buộc trong nhà trường, bởi vì họ hiếm tìm thấy nền tảng đạo đức nào như những gì đức Phật dạy, rất chuẩn và quan trọng trong ứng dụng.

       Mấy chục năm qua, trường lớp Việt Nam nhồi sọ về chủ nghĩa yêu nước và chiến tranh, đưa ra nhiều tấm gương tiêu biểu về tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm như Lê Văn Tám, Phan Đình Giót,... Có thể những kiến thức đó tốt trong thời kỳ chiến tranh, để ai ai cũng thể hiện trách nhiệm và tinh thần yêu nước, sẵn sàng chết và đóng góp cho Tổ quốc. Nhưng áp dụng chương trình giáo dục đó vào thời bình vốn đang cần cho sự phát triển là một sai lầm về phương pháp. Phương tiện có thể chấp nhận trong một giai đoạn, nhưng biến nó thành cứu cánh là một đe dọa.

       Gần đây, ta có bổ sung môn giáo dục đạo đức công dân mà còn đặt nặng quá nhiều về luật pháp cũng là điều chưa cần thiết. Những đạo đức về nhân cách, lối sống mới cần được triển khai nhiều hơn. Như thế thì các thế hệ học trò, khi ra đời lập nghiệp đỡ rơi vào tình trạng gây khủng hoảng, bất ổn cho xã hội và cộng đồng. Sự nhận thức và trở về môn đạo đức công dân dù quá muộn màng sau mấy chục năm, dù sao vẫn được xem là dấu hiệu tích cực cho nền đạo đức Việt Nam ở hiện tại, cũng như tương lai.

       Bên cạnh đó, ta nên xóa bỏ cái nhìn xa lạ, sợ hãi và dè dặt về việc đưa đạo đức Phật giáo vào trường học tại các quốc gia. Tôi tin rằng, nơi nào thầy cô giáo thấm nhuần đạo đức Phật giáo, trong lúc giảng dạy văn học, lịch sử hoặc những môn thuộc khoa học xã hội và nhân văn, thậm chí trong khoa học tự nhiên, lồng ghép các tư tưởng đạo đức Phật thì biết bao nhiêu thế hệ học trò sẽ được lợi lạc. Học trò được lợi lạc đồng nghĩa gia đình và xã hội được bình an hạnh phúc.                  

       Tóm lại, năm điều đạo đức Phật dạy cho hàng học trò và năm điều đạo đức cho nhà giáo, theo tôi dù trải qua hai mươi sáu thế kỷ vẫn còn chỗ đứng vững trong bối cảnh giáo dục hiện đại. Rất mong tất cả chúng ta phát tâm trở thành truyền thông viên, thông điệp viên cho những lời Phật dạy đến với cộng đồng giáo dục trên toàn cầu nói chung, và tại Việt Nam nói riêng; gần gũi thiết thực nhất là cho con cái trong gia đình mình. Mỗi bậc cha mẹ nên làm truyền thông viên, vừa đóng vai trò làm cha mẹ vừa đóng vai trò làm thầy cô giáo thì chắc chắn rằng con cái chúng ta sẽ trở thành trò ngoan giỏi trong việc học, tốt trong việc nhà, và có đạo đức trong tương quan xã hội. 

***

 
00:00