Chùa Xá Lợi, 18-12-2005
BẢN CHẤT CỦA SỰ TÁN DƯƠNG
Giá trị của sự tán dương bao giờ cũng tốt về phương diện giao lưu, đối tác giữa ta và người được tán dương. Tán dương là thừa nhận cái thiện giữa mối quan hệ tình người, làm cho người có liên hệ, cộng sự, đối tác với ta có an vui và hạnh phúc nhiều hơn khi nhìn thấy giá trị đóng góp của họ được thừa nhận và đánh giá đúng mức.
Trong đạo Phật đặc biệt là kinh A-di-đà, sự tán dương mang tính cách đề cao, phổ biến và nhân rộng cái thiện. Nó ngược lại với truyền thống của báo chí giật gân thường bày tỏ, phân tích và mô tả cái ác.
Bản chất của sự tán dương nhằm đề cao vai trò và sự đóng góp của con người cho cuộc đời, thông qua đó tạo ra ý nghĩa xã hội. Nhiều Phật tử khi làm công tác từ thiện xã hội lại muốn giấu tên, yêu cầu nhà chùa ghi vào sổ công đức là “vô danh”. Thực ra, ta đừng nên hiểu lầm học thuyết vô ngã là không để tên thật của mình trong những công trình từ thiện, mà nên hiểu vô ngã dưới góc độ của nhận thức và thái độ trong lúc ta làm.
Việc để danh tánh mang lại hai ý nghĩa, thứ nhất là ý nghĩa trách nhiệm về pháp lý nếu có vấn đề kiện tụng thì còn có bằng chứng trưng dẫn, thứ hai là ý nghĩa sẵn sàng cho mọi người thấy đây là một chương trình hay kế hoạch có sự chuẩn bị, đầu tư và có trách nhiệm, chứ không phải là việc làm qua loa, tùy hứng.
Về phương diện xã hội, việc để danh tánh có giá trị lớn, tạo cơ hội cho người khác bắt chước làm theo. Ví dụ một người có đồng lương thấp nhưng lại dám cắt đi một phần lương (như đức Phật đã dạy trong kinh Thiện Sanh) để làm việc có lợi cho cộng đồng, khiến cho người có mức lương cao hơn, giàu có hơn sẽ suy nghĩ lại về giá trị, tấm lòng, đóng góp và sự ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Vì lẽ đó, người Phật tử làm việc thiện thì đừng nên giấu tên, mà nên cho nhiều người biết đến để ý nghĩa xã hội được lan rộng và phổ truyền. Trái lại, việc ác thì không nên để nhiều người biết, nhằm không bắt chước và làm điều xấu ác đó trong tương lai. Cho dù ta cố tình che giấu người làm ác, họ không thể vượt thoát luật pháp của nhân quả. Việc làm lành cần được công bố công khai để có giá trị khích lệ. Chúng ta nên học nghệ thuật tán dương của đức Phật trong kinh A-di-đà, mười phương Phật tán dương giá trị đóng góp của đức Phật Thích Ca.
Tán dương là nghệ thuật truyền bá cái tích cực rất có giá trị. Thay vì nguyền rủa bóng tối, hãy làm một việc gì đó để tạo ra ánh sáng, thay thế cái xấu bằng cái tích cực và tốt đẹp hơn. Khi dấn thân dưới góc độ vừa nêu thì cửa ngõ và cơ hội khắc phục cái chưa hoàn thiện được thiết lập, đồng thời cái tốt được phổ biến,.
NGHỆ THUẬT TÁN DƯƠNG CỦA PHẬT THÍCH CA
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử. Cuộc đời của Ngài là bài học để ta tán dương mãi vẫn không hết. Ngài đã giới thiệu, ca ngợi những giá trị tích cực, tốt đẹp và huy hoàng của thần dân Tây phương Cực Lạc; thừa nhận các giá trị đặc biệt của thế giới đó và yêu cầu thần dân của Ngài phát nguyện sanh về nơi đó nếu có nguyện vọng. Đức Phật không “bế quan tỏa cảng” về tâm linh, lòng từ bi của Ngài muốn cho tất cả chúng sanh cõi Ta bà có được đời sống an vui, hạnh phúc và tốt đẹp hơn. Ngài đã mạnh dạn chỉ rõ hai thế giới khác nhau để mọi người có sự lựa chọn và không hề đóng cửa nhận thức của chúng sanh đối với cuộc đời.
Trong sự lựa chọn đó có sự so sánh và tạo ra khuynh hướng hành giả. Loại hành giả thứ nhất tìm kiếm giá trị tốt đẹp hơn để hướng về đó và trở thành những cư dân mới của Tây phương Cực Lạc. Loại hành giả thứ hai tích cực hơn, có giá trị về nhân văn và xã hội lớn, mô phỏng các giá trị tốt đẹp của Tây phương để thiết lập nơi cõi Ta bà. Từ bỏ một nơi khổ đau và đi đến một nơi an vui, hạnh phúc thì rất dễ, chỉ cần người ta nỗ lực làm gan “nhứt sanh thập tử” ở biển khơi thì họ có thể tìm được miền đất mới. Thế nhưng ở lại cuộc đời khổ đau này để tìm kiếm giá trị an vui và giúp cho người đang khổ đau được an vui thì quả thật nếu không có tâm nguyện Bồ tát, ta khó có thể làm được. Dĩ nhiên, không loại trừ tình trạng bất đắc dĩ, tức là những người tìm đường ra đi mà không được nên đành ở lại cuộc đời này. Sự ở lại đó hoàn toàn không có giá trị đạo đức mà chỉ có giá trị đối phó.
Giáo dục nhà Phật là giáo dục nhân quả, nhìn nhận sự thật để đánh giá thực tại chứ không hề chạy trốn sự thật. Thông qua cách tán dương đức Phật A-di-đà và thế giới Tây phương Cực Lạc, Thế Tôn đã không tán dương bản ngã của mình. Những đóng góp của đức Phật, Ngài không cần nói mà cuộc đời sẽ nói về Ngài. Tán dương bản ngã là nói về cái hay, cái đẹp và thành tựu xuất sắc của mình. Mười danh hiệu của Thế Tôn không phải do Ngài tự đặt ra để có vai trò hay vị trí xuất sắc, mà do chính cuộc đời đánh giá các giá trị đóng góp đó xứng đáng để Ngài có được những danh xưng đó. Thế Tôn đã được cuộc đời này tôn trọng nên người đời đã tôn xưng và gọi Ngài bằng danh hiệu như thế.
Thực ra, nếu gọi Ngài là Thích Ca Mâu Ni Phật thì từ tôn xưng này không mỹ mãn lắm. Các hành giả Bà-la-môn và Sa-môn trong thời đức Phật tán dương Phật bằng danh xưng Sakyamuni tức là bậc Thánh của dòng tộc Thích Ca. Người ta thường gọi Như Lai bằng hai từ, một là bậc hiền triết của dòng họ Sakya (Thích Ca Mâu Ni), hai là Sa môn Cồ Đàm (Gotama Samana). Từ thứ hai này có nghĩa trung tính hơn, không đề cập đến giá trị tâm linh và đóng góp, còn từ “nhà hiền triết của dòng họ Sakya” mang ý nghĩa tán dương nhiều hơn. Nếu là Phật tử, khi đọc danh xưng Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thì sự tán dương này có vẻ không hay lắm, vì nó chỉ là cách tán dương của những người không phải là Phật tử. Mười danh hiệu là một trong những cơ sở để ta tán dương Ngài hoặc có thể tán dương theo truyền thống Pàli: kính lạy đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh đẳng giác, bậc Vô thượng trên cuộc đời với lòng chí thành chí kính. Tán dương bản thân là điều không nên làm và cũng không nên yêu cầu người khác làm. Trong kinh A-di-đà, đức Phật Thích Ca đã sử dụng bốn nghệ thuật tán dương.
Tán dương bằng lời khen. Sự tán dương này hoàn toàn không mang tính chất xã giao, nghĩa là nói cho vừa lòng nhau hoặc lựa lời mà nói, vì bản chất của xã giao là lời nói qua loa mà trong đó chứa đựng lời hoa mỹ không thực lòng.
Kinh A-di-đà có đề cập đến bốn lần khen tặng của Thế Tôn như sau:
Lần thứ nhất, đoạn mô tả về bản chất sinh thái và cấu trúc phong thủy: “Thế giới Cực Lạc, có hồ bảy báu, hoa sen mùi thơm thanh khiết…” đức Phật nói: “Đó là đặc sắc của Tây phương Tịnh độ”.
Lần thứ hai, sau khi mô tả về cư dân Tịnh độ làm vô lượng công đức ở các hành tinh, sau đó trở về thế giới của mình tiết kiệm về tiêu xài cá nhân, dùng cơm đơn giản xong từng bước kinh hành thảnh thơi… đức Phật nói: “Đó là đặc sắc của Tây phương Tịnh độ”.
Lần thứ ba, sau đoạn mô tả các pháp âm bằng tiếng gió, tiếng chim mà đức Phật A-di-đà đã tạo ra, giúp cho hành giả tập trung vào pháp môn và gắn liền với sự hành trì, bày tỏ tấm lòng tôn kính Phật, Pháp, Tăng. “Đó là đặc sắc của Tây phương Tịnh độ”.
Lần thứ tư, sau khi trình bày các cấp độ tâm linh của hành giả cư dân Tịnh độ, đức Phật lại nói: “Đó là đặc sắc mà ta không thể tìm thấy ở cõi Ta bà”.
Đức Phật Thích Ca đã tán dương đức Phật A-di-đà đúng với ý nghĩa. Ngài đã tìm kiếm điểm tích cực, nét đặc sắc và các giá trị cao đẹp mà ảnh hưởng của nó có thể tạo ra văn hóa, sự hân hoan, dấn thân làm việc lành và tu tập. Nghệ thuật tán dương bằng lời khen của đức Phật Thích Ca được nhấn mạnh ở các góc độ vừa nêu. Đôi lúc ta vẫn thường khen tặng lẫn nhau giống như kẻ cò mồi, người này phát biểu tốt cho người kia để người kia phát biểu tốt lại cho mình. Điều này chỉ mang tính chất thù tạc.
Đức Phật Thích Ca sau khi mô tả nét đặc sắc ở Tây phương và muốn cho hành giả ở Ta bà tập trung vào điểm đặc sắc này, nên Ngài dừng lại bằng điểm chuyển: “Đó là điểm đặc sắc nhất của cõi Tây phương” để hành giả tập trung và dễ nhớ. Đây chính là nghệ thuật giáo dục của Thế Tôn tạo điểm nhấn giúp hành giả không thể quên để việc thọ trì, ứng dụng được diễn ra tốt đẹp.
Tán dương bằng lời khuyên. Nghệ thuật tán dương thứ hai mà đức Phật Thích Ca sử dụng là lời khuyên dành cho các hành giả đang nghe Ngài giảng dạy về nét đặc sắc của Tây phương Cực Lạc. Người đời thường nói “Đừng bao giờ cho lời khuyên khi người ta không có yêu cầu”, bởi lẽ lời khuyên ấy có thể rơi vào tình trạng “giáo đa thành oán”, nghĩa là nói nhiều quá khiến người ta dễ oán trách, thay vì mang ơn nhưng ngược lại họ xa lánh mình. Lời khuyên là một nghệ thuật, phải đặt đúng chỗ, đúng tình huống thì giá trị ứng dụng và hành trì của nó mới có thể thiết lập.
Thế Tôn đã khuyên như sau: “Vì nhìn thấy được lợi lạc hà sa, do niệm danh hiệu Phật A-di-đà, Ta khuyên các vị, hãy nên chuyên tâm, niệm Phật vãng sanh.” Đức phật vì nhìn thấy giá trị đặc sắc ở cõi Tây phương không còn tham ái, sân hận và si mê; ai được sanh về đây đều trở thành bậc bất thối chuyển về đạo đức và tâm linh, Ngài khuyên chúng ta hãy sanh về nơi ấy để có môi trường lý tưởng, thuận lợi về an ninh, việc tu tập được phát huy nhờ các hỗ trợ vật lý nên hành giả tu tập dễ thành tựu, an vui và hạnh phúc cũng sẽ có mặt. Khi nghe lời khuyên làm lành, chúng ta thừa nhận các giá trị tốt cho hành giả, cộng đồng và cuộc đời về phương diện thực tế ứng dụng.
Một môi trường an toàn tạo ra một tâm linh vững chãi là điều có thể chấp nhận. Môi trường hỗ trợ và ảnh hưởng đến tâm lý của con người rất nhiều. Nó ảnh hưởng đến tinh thần, ý chí, nguyện vọng, lý tưởng, quan điểm, ý thức hệ v.v…và con người là một phần ảnh hưởng của môi trường sống. Do đó, phải sống trong một môi trường Thánh như các thánh giả ở Tịnh độ thì an vui hạnh phúc mới có thể đảm bảo.
Tán dương bằng hộ niệm. Nghệ thuật tán dương thứ ba là hộ niệm. Đức Phật Thích Ca tán thán và khuyên các hành giả Tịnh độ nghe kinh A-di-đà, thọ trì danh hiệu và tu tập pháp môn Tịnh độ thì sẽ được chư Phật hộ niệm. Đoạn văn đó như sau: “Bất cứ người nam hay nữ, biết được kinh này và danh hiệu Phật, Cực Lạc Tây phương, thọ trì hết lòng, chánh niệm tỉnh thức, chuyên tâm niệm Phật, thì những người ấy, chư Phật hộ trì, cho đến khi được giác ngộ vô thượng. Vì thế các vị hãy tin Ta nói như lời Phật nói.”
Lời hộ niệm đó là lời tán dương giá trị hành trì của pháp môn Tịnh độ, giúp hộ niệm các hành giả đang dấn thân trên con đường tu tập, cho người đang thực hành tâm đức của Phật A-di-đà và cho tất cả những ai đang truyền bá pháp môn ấy.
Về nghĩa đen “niệm” là nhớ và “hộ” là giúp đỡ. Khi nói rằng ta đang bảo hộ cho một người nào đó, nghĩa là ta phải nhớ, thăm hỏi, chia sẻ và giúp đỡ người đó thường xuyên thì được gọi là hộ niệm. Chư Phật mười phương từng hộ niệm các vị Thánh giả ở Tây phương và các hành giả ở Ta bà đang hành trì pháp môn Tịnh độ. Sự hộ niệm được diễn ra theo hướng ủng hộ, tán đồng và gia trì.
Ủng hộ là bày tỏ sự đồng tình một cách tuyệt đối về quan điểm, lập trường, khuynh hướng dấn thân của một người nào đó, vì thấy được giá trị lợi lạc cho người ứng dụng và đối tác. Sự ủng hộ tạo ra liên minh, tình thân hữu, giúp thiết lập niềm tin của người có cùng chí hướng, nguyện vọng chính đáng hướng đến an vui và hạnh phúc.
Tán đồng là cách thức tùy hỷ, đồng ý về quan điểm của người khác, nghĩa là ta tin và vui với sự thành công và đóng góp của người đó.
Gia trì liên hệ đến sự hỗ trợ cụ thể nhằm gia tăng sự giúp đỡ và bảo hộ một người hay con đường nào đó. Dĩ nhiên, đây phải là con đường tích cực.
Sự hộ niệm trong kinh A-di-đà còn được diễn ra theo cách chư Phật mười phương, bản thân đức Phật A-di-đà và các vị Thánh Tăng ở Tây phương Cực Lạc sẵn sàng dang tay tiếp độ hành giả có nguyện vọng vãng sanh về đây. Việc dang tay giúp đỡ được hiểu theo hai nội dung, nghĩa đen và triết lý và biểu tượng.
Hiểu theo ý nghĩa triết lý, các Ngài sẽ cứu vớt con người từ cuộc đời khổ đau, bất hạnh. Sự cứu vớt ấy được thể hiển qua hình ảnh một ngôi chùa, một vị tu sĩ, một pháp môn, hoặc cách thức hành trì; cứu vớt người khác từ trạng thái khổ đau trở thành người thoát khỏi khổ đau, là cách thức dang tay tiếp dẫn.
Hiểu theo ý nghĩa biểu tượng, khi một người chết thì thần thức sẽ xuất ra khỏi thân thể vật lý và ra đi. Sự ra đi này không giống như động tác đi bộ, chạy xe hoặc máy bay: nó diễn ra trong một tích tắc thời gian. Nơi nào có tương ứng về nghiệp thì thần thức sẽ có mặt ở nơi ấy, giống như cái cây đang nghiêng hướng nào thì khi cưa nó sẽ ngã về hướng đó. Các hành giả Tịnh độ ngày và đêm “nhất tâm bất loạn” về pháp môn, hành trì không ngơi, chẳng phải với niềm tin cầu Phật gia hộ cho tuổi thọ, phước báu hay giàu sang phú quý, mà mong rằng bằng cách nương vào danh hiệu Phật, tâm hành giả đi vào trạng thái thiền định, không còn những loạn tưởng điên đảo hay vướng víu vào trần cảnh thế gian. Như thế, hành giả ở trong trạng thái thiền chỉ, dẫn tới nhất tâm.
Bản chất của tu tập sẽ giúp hành giả đạt được giá trị an vui và hạnh phúc mà không cần một vị Phật hay vị Bồ tát nào đưa bàn tay dẫn dắt. Hành giả sanh về Tây phương không thông qua con đường thai sanh, tức là không do cha mẹ sanh ra, vì như thế sẽ còn lòng tham, tính dục tham ái và là bản chất của sanh tử. Theo mô tả của kinh A-di-đà, hành giả sẽ hóa sanh từ hoa sen mang ý nghĩa biểu tượng là sanh ra từ sự thanh cao thoát tục. Khi sanh về đó, hành giả mang thân thể vật lý bay lên không trung nhẹ nhàng giống như những con chim, không cần một bàn tay níu kéo để đưa về cõi Tây phương Cực Lạc. Dù hiểu tái sanh theo cách thức vật lý hay tâm lý thì nghiệp cảm tương thích chính là điều kiện tiên quyết để ta có mặt ở Tây phương. Ở đây nghiệp cảm tương thích là thiện căn, phước báu và nhân duyên nhiều. Nếu thiếu các điều kiện vừa nêu, có nhưng sơ sài, qua loa thì cũng khó mà về được nơi ấy. Điều này là sự thật vì đạo Phật dựa trên nhân quả. Dang tay tiếp dẫn cũng là cách thức hộ niệm của đức Phật A-di-đà.
Ngoài ra, hộ niệm còn giúp cho hành giả đạt được trạng thái bất thối chuyển, nhớ Phật để tu tập tự lực, nhớ Pháp là con đường của tuệ giác, lòng từ bi và con đường giải quyết khổ đau, nhớ Tăng là những người mẫu mực về nỗ lực hành trì, hy sinh cả cuộc đời vì lý tưởng giải thoát, phục vụ cho cuộc đời với tinh thần vô ngã vị tha. Hành giả luôn nhớ về ba ngôi tâm linh sẽ cảm thấy cuộc sống hạnh phúc và an vui. Ta có thể nhớ theo công thức của pháp Lục niệm mà đức Phật đã dạy, tức là nhớ đến sự bố thí và giá trị đóng góp cho cuộc đời. Hoặc ta có thể nhớ về quả phước trên đời này, để tin chắc khi làm một việc lành thì phước báu sẽ trổ quả tương thích. Do đó ta không cần cầu hoặc mong đền ơn đáp nghĩa, mà hãy làm bằng tất cả tấm lòng. Tất cả sự ghi nhớ đó giúp ta có được sự bất thối chuyển trên lý tưởng và lập trường đạo đức mà chúng ta đang đi.
Đức Phật A-di-đà còn yểm trợ ta bằng chánh niệm, từ bi và tuệ giác. Chánh niệm được thiết lập trên các dữ liệu như tiếng gió thổi, chim hót, suối chảy, thông reo, mây bay, làm cho hành giả lâng lâng nhẹ nhàng nhớ đến Phật, Pháp và Tăng. Những cảnh này ở Ta bà ta vẫn thường thấy, chỉ cần một cơn gió thổi nhẹ qua hàng cây cũng có thể tạo ra những âm thanh xào xạc. Nếu lúc đó ta để tâm thư giãn, gác lại những lo toan, tính toán của cuộc sống và tâm hồn thơi thới, ta cũng có thể cảm nhận được sự vi diệu mầu nhiệm của những âm thanh này và xem như ta đang sống ở Tây phương Tịnh độ. Với cái nhìn tuệ giác của Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ thì tất cả những cái này đều là dữ liệu, công cụ và nội dung của Tịnh độ. Tịnh độ và Ta bà khác nhau về cái nhìn ứng dụng chứ không khác nhau về bản chất vật lý.
Mặc dù kinh A-di-đà mô tả Tây phương Cực Lạc là thế giới bảy báu: bảy lớp lan can, bảy lớp la võng, bảy lớp hàng cây, cát đất ở dưới suối đều bằng bảy báu; nên hiểu đó chỉ là cách mô tả biểu tượng. Thế giới như vậy không có sự sống của con người, bởi các mỏ quặng báu thường chứa nhiều độc tố dẫn đến giảm tuổi thọ con người. Đây cũng là lý do kinh mô tả về sự sống của các loài động vật. Mặc dù có sáu loại chim được nêu ra trong bản kinh, nhưng đức Phật gọi các loại chim này là “Tạp sắc chi điểu, biến hóa chi tác”, tức là loại chim nhiều màu do sự biến hóa mà có. Đây được xem là sản phẩm của phương tiện tuệ giác, cài đặt trong những con chim này một con “chip” giúp phát ra âm thanh vi diệu để các hành giả nhớ về pháp môn tu tập và hành trì.
Khi đã có sự hỗ trợ bằng chánh niệm, ta nhìn thấy tất cả đều là các giá trị tích cực. Có chánh niệm thì quán âm thanh gió thổi, chim hót không còn bay bỗng như các nhà văn thường trong tác phẩm văn học, lại là cái mầu nhiệm của cuộc đời. Tiếp xúc với sự mầu nhiệm này, hành giả sẽ có an vui mà không cần tìm một thế giới nào khác. Khi đã có năng lực của chánh niệm thông qua sự hộ trì, hộ niệm của chư Phật, hành giả sẽ đạt được những thành tựu căn bản liên hệ đến trí tuệ, niềm tin chân chính, ước nguyện tốt đẹp để hành trì và biến tất cả thành hiện thực chứ không còn là sự mơ tưởng đơn thuần nữa. Có sự hộ niệm như thế, hành giả mới thấy rằng cảnh giới Tây phương có giá trị và việc làm của đức Phật A-di-đà có thể giúp ta mô phỏng, ứng dụng cho cuộc đời. Làm được điều đó cũng là cách ta tán dương đức Phật A-di-đà. Nếu như việc làm ấy không có giá trị, đức Phật Thích Ca đã không dạy chúng ta làm như thế. Do đó, hộ niệm là nghệ thuật của sự tán dương.
Các đức Phật mười phương được nêu ra trong kinh này thuộc phương Đông, Nam, Tây, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng và Hạ. Đó là theo bản dịch của ngài Huyền Trang trung thành tuyệt đối với bản Sanskrit. Trong bản dịch của ngài Cưu-Ma-La-Thập chỉ còn lại sáu phương. Nội dung là có nhiều vị Phật, dấn thân phục vụ; tán dương và yểm trợ lẫn nhau. Bởi việc làm lành cần liên minh, bằng không sẽ bị cái xấu ác chinh phục. Chư Phật mười phương đều làm như thế.
Tán dương bằng sự xác tín. Nghệ thuật tán dương thứ tư bằng sự xác tín được thể hiện trong đoạn kinh như sau: “Này Xá-lợi-phất, ai đã phát nguyện, hoặc đang phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện, sanh về Cực lạc thì ngay lúc nguyện đã được bất thối nơi đạo vô thượng và đã có mặt tại Cực Lạc rồi”. Vế cuối của đoạn này mang ý nghĩa sâu sắc, tức là đã làm, đang làm và sẽ làm là đã có mặt nơi Tịnh độ. Quan niệm đó tạo ra học thuyết duy tâm Tịnh độ, nghĩa là Tịnh độ ngay trong nhận thức của con người. Đó là nền tảng tạo tiêu chí cần thiết, giúp hành giả sanh về Tây phương. Không có nguyện ước mà làm một cách bắt buộc, bất đắc dĩ hay gượng gạo thì khó được thành tựu; vì nó, thiếu nghị lực và phương pháp. Khi ta mong mỏi một điều gì thì niềm mong ước đó sẽ giúp sức cho điều ấy được thành tựu. Do đó, hành giả phải có niềm tin xác quyết và nêu quyết tâm đi theo lý tưởng. Làm như thế là ta đang thực hiện, dấn thân và hoàn thành lý tưởng đó.
Đức Phật đã xác tín lời Ngài nói không khác gì với lời của chư Phật mười phương. Ở đây, yếu tố nhân quả đồng thời được diễn ra trong khi đức Phật Thích Ca tán dương đức Phật A-di-đà thì chư Phật mười phương tán dương đức Phật Thích Ca, nghĩa là gieo nhân nào sẽ được quả đó. Nhân tán dương thì quả tán dương, nhân chê bai thì quả sẽ bị phê bình, chỉ trích. Hiểu được như thế, ta không nên có hành động chê bai mà nên tán dương việc lành. Việc xấu thì ta nên nhẹ nhàng góp ý, xây dựng, bởi vì ai cũng có mặt cần sửa đổi. Tán dương bằng cách nhân rộng mô hình của việc thiện, việc lợi ích thì ta sẽ khắc phục và đẩy lùi được tà ác, mang lại nhiều giá trị lợi lạc, nhân quả đồng thời được diễn ra, việc lành sẽ có một kết quả thích đáng, vấn đề còn lại là thời gian nhanh hay chậm mà thôi. Các vị Phật đã thừa nhận giá trị của nhau và các ngài đã dạy chúng ta những hạnh nguyện tuỳ hỷ công đức và tán dương hạnh tùy hỷ công đức.
Trong đời, con người rất khó tuỳ hỷ lẫn nhau, vì các đảng phái đối lập luôn tìm cách nói xấu một cách tuyệt đối nhằm đè bẹp, gây mất ảnh hưởng của người khác và tạo thế đứng độc tôn cho mình. Bản chất của triết học, tôn giáo, chính trị, các đoàn thể, phe phái làm mất đi giá trị tùy hỷ công đức. Phần lớn đặt trên nền tảng của sự ganh tị, hơn thua và loại trừ lẫn nhau. Tán dương công đức là nghệ thuật tạo nên liên minh của đạo đức và tích cực.
Mười phương chư Phật đều có các đạo tràng Tịnh độ. Các Phật vẫn tán dương các vị Phật ở cõi khác khi các vị ấy đã làm những việc đáng làm. Điều này trái lại với chúng ta, phần lớn người ta tự khen mình, cho mình là số một và không ai có thể hơn mình được. Trong trường hợp nếu có ai bằng mình cũng bị phủ nhận bằng cách so sánh kém hơn. Cách thức so sánh hơn, bằng và kém đặt trên nền tảng của bản ngã. Trục xoay đó cường điệu giá trị của mình lên và hạ bệ giá trị người khác xuống, làm mất đi cán cân công bằng của hệ giá trị trong đời. Trong khi đó, tán dương giúp ta thiết lập các giá trị tích cực.
Khi đức Phật Thích Ca xác tín việc Ngài nói không sai, Ngài được sự đồng thuận rất lớn của mười phương Phật biểu đạt bằng hành động cụ thể là vận dụng “Quãng trường thiệt tướng”. Quãng là rộng và trường là dài, tức là vận dụng tướng lưỡi rộng dài của mình để tán dương đức Phật. Trong nhân tướng học, tướng lưỡi rộng dài tượng trưng cho sự chân thật. Ai có thể đưa lưỡi đến mũi thì lời nói của người đó được hiểu là chân thật. Điều này không có định lý đảo, tức là nếu lưỡi không đưa đến mũi không nên hiểu là không chân thật. Nhân tướng học của Ấn Độ cho rằng lưỡi là nơi phát ra tiếng nói, rộng dài tượng trưng cho sự vững chãi, bền bỉ và chân lý. Bản kinh nói “Lưỡi dài rộng phủ, trùm khắp mười phương, tam thiên đại thiên thế giới”. Đây là một biểu tượng triết lý, ý muốn nói rằng chân lý bao trùm khắp mọi nơi và giá trị của tuyên dương công đức ảnh hưởng và lan rộng khắp mười phương cõi nước. Ý nghĩa biểu đạt của nó nhằm khen con người có chất liệu chân thật, thành khẩn chứ không là sự xã giao. Người chí thành khen ngợi luôn đánh giá người được khen một cách có ý nghĩa và ấn tượng. Tán dương phải có nghệ thuật và phương pháp thì giá trị và sự ảnh hưởng lây lan tâm lý mới phổ truyền.
Mười phương Phật nhiều như “cát sông Hằng” đã tán dương đức Phật A-di-đà và đức Phật Thích Ca. Khái niệm “cát sông Hằng” tượng trưng cho số lượng nhiều không thể tính đếm, vô số Phật đã tán dương công đức của đức Phật Thích Ca. Tại sao đức Phật Thích Ca tán dương đức Phật A-di-đà chỉ qua một bài kinh ngắn mà lại được vô số các vị Phật tán dương Ngài? Nhân quả tại sao không tương thích nhau?
Giá trị nhân quả tỷ lệ thuận với tâm. Tâm lượng lớn trong tán dương thì quả được khen tặng sẽ lớn hơn nhiều. Người ta chỉ cần làm một mà đạt giá trị đến mười hoặc một trăm. Nếu biết cách đầu tư thì ta sẽ có giá trị về đạo đức, phước báu lớn một cách tương thích. Ví dụ người Tây Tạng vận dụng công thức toán học trong tu tập, thường tạo ra tháp chứa đựng nhiều cuộn giấy. Mỗi cuộn giấy được viết khoảng vài ngàn câu thần chú“Án-ma-ni-bát-di-hồng” tượng trưng cho hạnh phúc, an lạc và hòa bình. Mỗi lần kinh hành qua tháp, người ta lần chuỗi niệm “Án-ma-ni-bát-di-hồng” và tâm liên tưởng đến vô số câu thần chú đựng trong tháp. Câu thần chú được nhân lên từ cấp số nhân đến vô số lần, lệ thuộc vào cách dụng tâm. Phương pháp quán tưởng này làm tăng giá trị của sự hành trì. Tán dương bằng tấm lòng thì giá trị giao thoa tâm linh được mở rộng ra mười phương thế giới. Đây là phương pháp vận dụng toán học trong tâm linh, và là nghệ thuật mà ta có thể thực hiện. Thỉnh thoảng vẫn có người làm như thế, nhưng đôi khi không chú ý đến và do vậy không hiểu được ý nghĩa.
NGHỆ THUẬT TÁN DƯƠNG CỦA CHƯ PHẬT
Đức Phật Thích Ca đã được mười phương chư Phật khen ngợi như sau: “Này Xá-lợi-phất, khi Ta tán dương công đức của Phật Cực lạc Tây phương, thì vô số Phật cũng đang ca tụng công đức của Ta. Đức Phật Thích Ca, thật là hy hữu, trong đời năm trược, thế giới mong manh, thấy biết sai lầm, chúng sanh can cường, não phiền nghiệp chướng, tuổi thọ ngắn ngủi, mà vẫn tu tập, đắc được đạo quả, vô thượng bồ đề; lại còn tuyên thuyết, pháp môn niệm Phật, mang lại an lạc, hạnh phúc đời đời, giúp cho mọi loài, thoát khỏi ba cõi.” Lời tán dương rất ngắn nhưng sâu sắc và ấn tượng với nhiều nội dung khác nhau.
Thế Tôn là bậc hy hữu trong loài người, một siêu nhân về tu tập, đạo đức, dấn thân và hành trì về ứng dụng quyền trí. Ngoài nội dung của sự hy hữu vừa nêu, nó còn được hiểu theo nội dung rằng, Ngài là người tu được trong đời ngũ trược với nhiều dục lạc, cám dỗ và nhiều thách đố.
Rất nhiều người đã nỗ lực đi ngược lại con đường truyền thống của Bà-la-môn giáo, muốn xóa sổ con đường thần linh và kháng cự lại định mệnh do Thượng đế an bày trong bốn bộ kinh điển Vệ-đà với bốn giai cấp xã hội cha truyền con nối. Trong số đó có vài người đã thành công, thiết lập nên truyền thống Sa môn đối lập và phủ định lại truyền thống tâm linh của Bà-la-môn giáo, truyền thống kinh điển Vệ-đà, và tất cả giá trị đạo đức trong truyền thống đó nhưng họ lại tạo ra những bế tắc khác.
Trường phái Sa môn nổi tiếng tại Ấn Độ là duy vật cổ sơ Ấn Độ. Quan điểm của trường phái này là sống dựa trên nhân quả ở một mức độ nào đó. Họ cho rằng mọi thứ trên cuộc đời được diễn ra một cách ngẫu nhiên và chết là hết. Do đó, họ cứ hưởng thụ những gì có được mà không cần ngưỡng bái thần linh, vì các thần linh không giúp ích gì cho cuộc đời, thần linh tạo ra thiên tai, hạn hán, lũ lụt…và nhiều nỗi khổ niềm đau khác. Đó là lý luận của chủ nghĩa Duy vật Ấn Độ.
Bên cạnh đó, có một chủ nghĩa Sa môn khác được gọi là Kỳ Na giáo, sống hạnh ép xác rất cực đoan. Đời sống của họ đáng kính ở chỗ họ không mặc áo quần và vận dụng thiền Yoga để khắc phục cái lạnh băng giá của miềm Bắc Ấn Độ dưới 00 C. Họ sống đơn giản và ăn chay trường. Trường phái này cho rằng con người trải qua một quá trình tiến hóa giống như loài động vật, từ loại bò sát đến loài động vật bốn chân, sau đó đến loài khỉ vượn hai chân và đến loài người. Đến khoảng vài tỷ năm con người tự nhiên trở thành bậc giác ngộ.
Sự nỗ lực tu tập của hai phái Sa-môn này vẫn không tạo ra đáp án gì cho tâm linh và cuộc đời. Thế Tôn cũng là vị Sa-môn nhưng nhờ nương vào hai phương pháp thiền quán vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ của hai vị thầy khai tâm mà Ngài có chiều sâu tâm linh căn bản. Sau đó, vì nhận thấy những giới hạn của nó nên Ngài chuyển sang con đường tu tập trung đạo, cuối cùng Ngài đã phát hiện ra giá trị tâm linh cao quý nhất để cống hiến cho cuộc đời.
NHƯ LAI - BẬC HY HỮU TRONG LOÀI NGƯỜI
Trong đời ngũ dục, Đức Phật bỏ được cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan và địa vị cao nhất trong xã hội không dễ có mấy ai làm được. Từ người ăn xin trở thành người giàu có thì dễ, nhưng một người giàu có chấp nhận thân phận của kẻ khất thực để hoá độ thì quả thật là khó. Cái khó đó đã khiến vua Tịnh Phạn trách Thế Tôn rằng: “Tôi không ngờ có một người con như ông, đã làm mất danh giá của dòng tộc, làm vua không muốn, lại muốn thành kẻ ăn xin”. Thế Tôn lý giải rằng đây không phải là ăn xin, mà là con đường hành đạo để tạo cơ hội hoá duyên quần chúng. Nhờ sự tiếp xúc này lời kinh tiếng pháp có thể ban tặng cho đời. Chính từng bước chân thảnh thơi đã tạo hiệu ứng tâm lý nơi người quan sát. Khất sĩ dù không có tài sản, quyền thế nhưng vẫn toát ra vẻ thong dong, tự tại và hạnh phúc. Đó là bài thuyết pháp không lời rất sinh động. Thái tử đã thuyết phục được nhà vua an tâm, Ngài chẳng những không làm cho danh giá của dòng họ Thích Ca bị mất đi mà trái lại còn làm cho tên tuổi của dòng tộc sống vĩnh viễn với đời. Mọi người sẽ nhớ đến dòng họ Thích Ca vì đã tạo ra một Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật xác định rõ trong cõi Ta bà có thể truyền bá pháp môn Tịnh độ thành công. Điều này có vẻ khá hồ nghi, khi nhiều người cho rằng pháp môn Tịnh độ quá đơn giản, đáp ứng cho mọi căn cơ và trình độ con người, nhưng nếu hiểu kinh A-di-đà một cách nghiêm túc thì pháp môn này quả thật không dễ. Bởi bản chất của pháp môn là thiền quán và giá trị của nó chính là trạng thái nhất tâm bất loạn. Các mô tả vật lý và môi trường sinh thái của Tây phương Cực Lạc chỉ là nghệ thuật mà đức Phật tạo niềm đam mê và thiết lập niềm tin cho các hành giả có nguyện vọng sanh về cõi ấy. Nếu thiếu những viên kẹo bọc đường thì thuốc đắng giã tật của pháp môn Tịnh độ khó mà nuốt trôi. Giá trị hành trì của pháp môn Tịnh độ là con đường dấn thân lục độ vạn hạnh, làm liên tục và tất cả các hạnh lành, cho đến lúc nào không còn gì để làm mới thôi. Đến khi được sanh vào cõi Tây phương Cực Lạc rồi cũng chưa có nghĩa là ta đã hoàn tất công việc hành trì. Hàng ngày các hành giả cõi ấy vẫn phải tiếp tục nhặt hoa công đức, làm các việc phước báu ở những hành tinh khác để cúng dường mười phương chư Phật.
Các hành giả tu tập ở cõi Ta bà vẫn chưa đủ, về Tây phương Cực Lạc lại phải tiếp tục tu để trở thành các vị Thánh, vị Phật và khi đã chứng đắc đạo quả Thánh rồi thì vẫn phải tiếp tục dấn thân phục vụ không lúc nào ngơi nghỉ. Chính vì thế, đây không phải là một pháp môn dễ tu, bởi lẽ tu như thế nào để đạt được trạng thái nhất tâm bất loạn là cả một nghệ thuật không đơn giản tí nào. Thế Tôn đã phải mất đến bốn mươi chín ngày liên tục mới đạt được trạng thái này dưới cội bồ đề. Tổ Bồ-đề Đạt-ma phải mất đến chín năm xoay mặt vào tường (cửu niên diện bích) mới trải nghiệm hết trạng thái thiền định. Gần đây, có một tiểu Phật ở Népal đã nhập thiền định được bảy tháng. Số người làm được và thành công rất ít. Nghe qua có vẻ đơn giản nhưng thực tế lại rất khó làm, càng đơn giản bao nhiêu thì lại càng khó làm bấy nhiêu.
NGŨ TRƯỢC Ở CÕI TA BÀ
Những ai truyền bá pháp môn Tịnh độ ở cõi Ta bà này thành công là điều rất đáng tán thán, vì cảnh giới này có đến năm yếu tố chưa được hoàn thiện gọi là ngũ trược. Từ “trược” hiểu theo nghĩa đen là bất tịnh, ô uế. Khái niệm “trược” trong bản kinh được hiểu là bất toàn về đời sống, sinh hoạt, đạo đức, lương tâm, nhận thức, ứng xử, giao tế, hành trì gồm có năm yếu tố như sau:
Kiến trược. Kiến thức thấy biết của con người rất sai lầm do nền tảng văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, triết học hữu ngã và sự bất công tạo nên. Người ta lấy bản ngã làm trục xoay, nhân danh thượng đế, thần linh để gây nhiều tội lỗi cho cuộc đời. Tất cả những điều này đều thuộc về kiến trược, tức là nhơ uế về nhận thức. Sự nhơ uế về nhận thức gồm năm bình diện khác nhau.
- Thân kiến tức là chấp vào thân thể vật lý này là tôi, của tôi. Ai chạm đến cái tôi thì phiền não, sân si bắt đầu trổi dậy dẫn đến va chạm và loại trừ lẫn nhau. Quan niệm thân kiến này diễn ra khi người ta cho rằng nó trường tồn vĩnh cửu. Các tôn giáo khác cho rằng con người khi chết có hai con đường để lựa chọn, một là lên thiên đàng vĩnh viễn, hai là xuống hỏa ngục đời đời. Tất cả những nhận thức như thế đều là sai lầm.
- Biên kiến được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất là các quan niệm, nhận định, đánh giá theo hai khuynh hướng thường và đoạn, nghĩa là con người sẽ sống vĩnh viễn hoặc chết là hết. Các tôn giáo như Do Thái giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành và Hồi giáo đều rơi vào thường kiến như thế. Những ai muốn được công nhận là con chiên trong đàn, phải tin theo mười lời răn của Chúa mới có thể sống đời đời kiếp kiếp ở nước Chúa, nếu ngược lại lời dạy của Chúa thì sẽ bị trừng phạt và ở hỏa ngục đời đời. Thường kiến liên hệ đến phần thân kiến của con người, đoạn kiến rơi vào các quan niệm của chủ nghĩa Duy vật cổ sơ và chủ nghĩa Duy vật hiện đại với quan niệm “chết là hết, không có đời sau, không có nhân quả báo ứng và đạo đức”. Các quan niệm như thế rất nguy hại trong tình huống con người gặp phải bế tắc, họ lập luận rằng kết quả của kẻ dữ và người lành đều giống nhau, dù có nỗ lực làm tốt nhưng cũng chẳng mang lại kết quả gì. Nghĩa thứ hai của biên kiến là tất cả chủ nghĩa nhị nguyên đối đãi, dẫn đến đối đầu, tranh chấp lẫn nhau và khổ đau có mặt.
- Tà kiến tức là không tin nhân quả, trái lại tin vào định mệnh hoặc sự an bày của Thượng đế, hoặc tin sự ngẫu nhiên hoặc tự nhiên. Tà kiến rất nguy hại, có thể đưa con người rơi vào thường kiến, đoạn kiến hay những quan niệm sai lầm khác.
- Kiến thủ lại càng nguy hại hơn, quan điểm đã sai lầm lại còn chấp vào và cho đó là chân lý. Việc nâng cái sai lầm trở thành chân lý thường thể hiện rõ ở những phong tục tập quán. Một khi chúng đã gắn liền với nền văn hóa thì dù có tác hại hay tiêu cực cách mấy người ta vẫn không dễ dàng từ bỏ chúng. Đối với người có kiến thủ thì không dễ chấp nhận chân lý của người khác vì luôn cho mình là đúng. Đức Phật đưa ra ẩn dụ về cái ly khi lấy nắp đậy lại thì không thể rót nước vào được, nghĩa là não trạng của người đó bị xơ cứng, đóng băng và không thể chấp nhận những gì khác với suy nghĩ của mình.
- Giới cấm thủ là sự sai lầm về phương pháp hành trì. Chẳng hạn có người cho rằng tu khổ hạnh ép xác là con đường giải thoát, hoặc hưởng dục lạc là con đường hạnh phúc tuyệt đối. Các quan niệm này đã nâng không đúng lên thành chân lý. Khi được nâng lên thành chân lý kết hợp với sự nhiệt tình thì người đó sẽ sống với ảo giác. Lúc đó, họ có thể cho mình là Phật, Thượng đế hay là hóa thân của các ngài dẫn đến việc truyền bá quan niệm sai lầm. Đức Phật khuyên các vị xuất gia nếu ai tự xưng mình là bậc thánh thì phạm tội tẩn xuất, nghĩa là vĩnh viễn không còn là thành viên của Tăng đoàn. Sự khoe khoang trình độ tâm linh của mình cho người khác là đi sai đạo Phật dẫn đến thái độ cống cao ngã mạn.
Kiếp trược. Thế giới Ta bà là hành tinh chúng ta đang sống, mang tính vô thường, vô ngã về phương diện thời gian và không gian. Kiếp trược còn được hiểu là một xã hội trong đó chính trị không ổn định, luôn bị thay thế và hà khắc, không chăm sóc đời sống của người dân mà chỉ vơ vét quyền lợi cho riêng mình. Người đang sống trong môi trường đó được xem là đang sống trong kiếp trược với nỗi khổ niềm đau lớn. Hành giả cần thay thế kiếp trược bằng mô hình thu nhỏ của Tây phương Cực Lạc trong cộng đồng, ngôi nhà hay trong tâm của ta với chánh trí, tức là bằng nhận thức Vô Lượng Quang; lấy tuệ giác không giới hạn, trong một triều đại lịch sử hay trong một phạm vi nhất định nào đó để các giá trị chân lý xuất hiện ở mọi nơi, mọi chốn.
Phiền não trược. Đời sống con người thường gắn liền với sầu bi khổ não. Các loại phiền não này là độc tố của tâm lý, cảm xúc và nhận thức. Ai sống trong độc tố sẽ bị chết trước khi kết thúc mạng sống của họ. Kinh A-di-đà dạy ta phải thay thế bằng tâm bồ đề, hay tâm giác ngộ nhờ đó phiền não trược sẽ không còn.
Chúng sanh trược. Con người ở cõi Ta bà có nhiều thói quen xấu, đã tạo ra khuynh hướng, chức nghiệp, lập trường và quan điểm tiêu cực. Họ luôn có khuynh hướng sống vì lợi lạc cho bản thân và gia đình nhiều hơn là cho cộng đồng xã hội. Hễ thấy ai làm việc tốt thì giấu đi nhưng việc xấu thì loan truyền. Thái độ đó làm chúng sanh ở Ta bà trở nên vị ngã, nhỏ nhoi, ích kỷ.
Mạng trược. Là những bất toàn về mạng sống hay tuổi thọ ngắn ngủi. Tuổi thọ con người ở Ta bà khoảng một trăm tuổi, chỉ bằng một ngày một đêm ở Tây phương Cực Lạc. Độ chênh lệch về thời gian ở hai cõi là điều có thật. Thế giới Tây phương với phước báu, khoa học kỹ thuật, phương tiện sinh hoạt và tuổi thọ khác với cõi Ta bà rất nhiều. Dựa vào phước báu của từng người ta có thể biết được tuổi thọ dài hay ngắn. Con người có nhiều bệnh tật nên mạng sống con người là trược uế. Hành giả cần thay thế mạng trược bằng Vô Lượng Thọ, tức là từ công đức tạo ra tuổi thọ không ngằn mé.
HỌC HẠNH TÙY HỶ CỦA CHƯ PHẬT
Chính vì hoàn thành công việc giáo hoá đời năm trược, đức Phật Thích Ca đã được mười phương chư Phật tán thán là làm được việc khó làm. Hành động tán thán của mười phương chư Phật không phải là hình thức a dua mà đó là hạnh nguyện tùy hỷ với cái thấy trên giá trị chân lý, và tán dương những gì cần tán dương.
Hạnh tán dương của chư Phật giúp ta học hỏi và thực tập cách thức tán dương người khác. Con người luôn có mặt tích cực và tiêu cực. Đối với mặt tiêu cực, ta góp ý xây dựng để họ có cơ hội sửa đổi. Đối với mặt tích cực, ta nên khen tặng để mọi người có thể học hỏi, bắt chước. Những người đóng góp tiền bạc, tài vật vào các việc từ thiện thì nên nêu rõ danh tánh; bởi đó không phải sự ngã mạn, mà là sự phổ biến về phương diện xã hội. Các bậc cha mẹ làm công đức nhiều mà giấu đi thì con cái làm sao biết để bắt chước noi theo. Khi được chùa tặng tuyên dương công đức, ta nên trân trọng treo lên tường để con cháu, bà con lối xóm và thân bằng quyến thuộc nhìn thấy mà bắt chước làm theo. Theo Phật giáo, cái đẹp, cái tốt cần phải được tuyên dương. Việc làm này là một trong mười hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Ai cũng có điểm tích cực đáng được khen. Tâm lý con người thích được khen hơn là chê. Một lời khen đúng có thể giúp cho ta phấn đấu nhiều hơn lời chỉ trích, chê bai.
Pháp môn Tịnh độ trong kinh A-di-đà không những dạy về phương pháp nhất tâm bất loạn, cách thức dấn thân hành trì của các hành giả, thánh giả, mà còn dạy ta gương hạnh tán dương của chư Phật. Đức Phật tán dương người tốt, việc tốt sẽ tạo nên dấu ấn và đạo lý để mọi người cùng làm theo. Đức Phật A-di-đà khi được đức Phật Thích Ca tán dương, vẫn mặc nhiên để cho lời khen tặng ấy được diễn ra. Đức Phật Thích Ca khi được mười phương chư Phật khen tặng, đã im lặng. Từ chối lời khen tặng một cách khéo léo có nghĩa là muốn người khác khen mình nhiều hơn. Chư Phật không làm như thế. Cứ để việc làm tốt được mọi người khen.
Học hạnh của chư Phật, ta cần tán dương những người làm việc lành, đóng góp cho xã hội và dấn thân tích cực trong đời. Ngày nay, nhờ các phương tiện thông tin, công việc tán dương được nhân rộng và lây lan. Ví dụ đi vận động từ thiện mà tự đưa tin lên truyền hình thì sự lây lan tâm lý được phổ biến, mọi người tích cực hưởng ứng, nhưng nếu âm thầm làm từ thiện thì sự đóng góp đó sẽ bị hạn chế. Để lại lời tán dương công đức và danh tánh của những người ấn tống, có thể làm cho nhiều người hiểu lầm rằng, đã làm công đức mà còn để tên vào chẳng khác nào làm cho bản ngã phình to. Hiểu như thế là chưa thấu đáo, bởi tán dương công đức là giúp người khác, học tập và bắt chước làm theo. Việc tán dương mang giá trị xã hội và lây lan. Nếu việc làm lành mà không ai hưởng ứng thì việc ấy sẽ bị đứt đoạn. Dĩ nhiên, việc tán thán phải đúng, khen người không đáng được khen sẽ trở nên vô nghĩa.
***