Bài thuyết trình tại câu lạc bộ Thanh Niên, TP.HCM, ngày 12-7-1991
Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông, hằng năm cứ vào ngày rằm tháng 7, ngày Tăng Ni tự tứ, toàn thể Tăng Ni Phật tử noi theo gương hiếu của đức Mục-kiền-liên, long trọng tổ chức đại lễ Vu-lan-bồn, để tưởng nhớ và báo đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Chính vì thế ngày Vu-Lan đã được xem là ngày Cha Mẹ trong Phật giáo.
Trong lễ tưởng niệm ngày hôm ấy, ai diễm phúc còn đầy đủ song thân sẽ được cài lên áo một bông hồng đỏ. Những ai không may mắn đã mất cha hoặc mẹ hoặc cả song thân sẽ được cài lên áo một bông hồng trắng. Để buổi lễ được tổ chức trọng thể, các Phật tử tạm dừng mọi công việc hằng ngày để đi lễ chùa, chúc thọ, cầu an hoặc cầu siêu cho cha mẹ. Chư Tăng Ni tại các tự viện, tùng lâm sẽ thuyết giảng về hiếu hạnh, sẽ tụng kinh Vu-lan, kinh Báo Ân Cha Mẹ. Ngoài ra, Tăng Ni, Phật tử còn làm lễ khánh tuế, mừng các bậc sư trưởng của mình được thêm một tuổi đạo.
Ngày Vu-lan, ngày báo hiếu đã ăn sâu vào tâm khảm của người Phật tử, vào lòng người Việt Nam và thật sự trở thành một sức sống mãnh liệt, một nét văn hóa độc đáo, một nét đặc trưng cho tính nhân bản của xã hội loài người. Hiếu được xem như một thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất trong các thứ tình cảm của loài người. Hiếu là chất liệu cho cuộc sống, là hương thơm cho đời, là hành trang vô giá và không thể thiếu vắng ở bất kỳ người nào. Hiếu phản ánh đời sống văn hóa và đạo đức của xã hội. Hiếu phân định nhân cách, tri thức của con người. Hiếu là chất liệu sống muôn thuở. Nói đến Hiếu là nói đến điều cao đẹp nhất, thiêng liêng nhất đối với mọi người.
Mỗi xã hội, mỗi tôn giáo đều có quan niệm khác nhau về đạo đức, nhưng cùng đề cao giá trị văn hóa, đạo đức của hiếu đạo là tuyệt vời. Trong cuốn sách nhỏ, người viết xin trình bày chữ Hiếu qua Ca dao Việt Nam, những lời ca dân gian của một dân tộc thấm nhuần tình cảm hiếu nghĩa, và chữ Hiếu trong kinh điển Phật giáo, một tôn giáo dạy về chữ hiếu nhiều nhất, đầy đủ nhất và đặc biệt nhất trong các tôn giáo của nhân loại.
CHỮ HIẾU TRONG CA DAO VIỆT NAM
Trong ca dao Việt Nam, chữ hiếu đóng một vai trò quan trọng và nền tảng về đạo đức và luân lý xã hội. Nó góp phần giáo dục, xây dựng một xã hội bình ổn và hạnh phúc. Trước nhất và quan trọng hơn hết, ca dao nhấn mạnh đến công ơn trời biển và công đức sâu dày của cha mẹ, một thứ công ơn khó mà diễn tả cho cùng:
Anh ơi, em bảo anh này
Công cha nghĩa mẹ cao dày chớ quên!
Với sự diễn tả xác đáng hơn, ca dao Việt Nam khẳng định
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ca dao Việt Nam đã diễn tả tình cha mẹ rất chính xác. Cha thương con nhưng cứng rắn, nghiêm nghị nên được ví với sự sừng sững của núi Thái, một ngọn núi to lớn và hùng vĩ. Mẹ thương con ngọt lịm dịu dàng nên được ví với suối nguồn chảy tuôn êm ả, nhẹ nhàng, bất tận. Ca dao Việt Nam còn nhấn mạnh đến nỗi cực nhọc chín tháng cưu mang, ba năm bồng ẵm của người mẹ:
Nhớ ơn chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Hay
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng
Thì ngày đêm tư tưởng chớ khuây
Hai công đức ấy nặng thay
Xem bằng bể rộng, xem bằng trời cao
Kể từ lúc hãy còn thai dựng
Đến những khi nuôi nấng giữ gìn
Nặng nề chín tháng cưu mang
Công sinh bằng vượt biển sang nước người.
***
Ơn hoài thai to như bể
Công dưỡng dục lớn tựa non.
***
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa.
Công cha nghĩa mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân
***
Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta
Nên người ta phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao!
Ngoài ra, ca dao còn diễn tả sự hy sinh của mẹ cho con cái là vô cùng:
Nuôi con chẳng quản chi thân
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn
Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ.
Đặc biệt ca dao còn xác quyết công lao cao dày của cha mẹ là một sự thật, một thực thể tình người, mà những ai đã, đang và sẽ có con cái sẽ cảm nhận chính xác nhất:
Có con mới rõ sự tình
Xưa kia thầy mẹ thương mình thế nao.
***
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
***
Nuôi con mới biết lòng cha mẹ
Thấy loạn thì hay thuở Thuấn Nghiêu.
(Nguyễn Trãi)
Chính vì công lao sâu dày của cha mẹ là không cùng, ca dao Việt Nam khẳng định vị trí của cha mẹ là vô song, không có gì có thể sánh bằng. Một khi cha mẹ mất, con cái phải chật vật, đau khổ và dường như mất cả ý nghĩa của cuộc đời:
Còn cha gót đỏ như son
Mai sau cha mất, gót con lấm bùn
***
Còn cha còn mẹ thì hơn
Mất cha mất mẹ như đờn đứt dây.
Trong các thứ tình cảm, ca dao khẳng định tình cảm giữa cha mẹ và con cái là cao quý nhất, vượt hơn tình yêu đôi lứa:
Cha mẹ già thật đã khó tìm
Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi.
Chính vì thế, còn có nỗi đau nào hơn nỗi đau khi cha mẹ mất!
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ cha nhớ mẹ chín chiều ruột đau
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau như dần.
Hay tình cảm đối với cha mẹ còn sống nhưng trong cảnh chia cách:
Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc
Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo.
Ca dao còn ví cha mẹ như Phật, mà theo kinh điển Phật là đấng cao quý nhất trong ba cõi, là thầy của chư thiên và loài người. Nghĩa là ca dao đã trân trọng đặt cha mẹ lên vị trí tôn quý nhất trong tam giới:
Gió đưa cành trúc la đà
Cha mẹ còn sống Phật đà hiện thân.
Do sự tôn kính đó, ca dao đã dạy trước phải kính dưỡng đức Phật trong nhà - Cha mẹ rồi sau mới kính dưỡng đức Phật ngoài đường. Trên cơ sở này, ca dao có quan điểm rằng sự đi tu với hình thức “cắt ái từ thân, xuất ly gia đình” không còn là điều tiên quyết:
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ cũng là chân tu.
Hay
Lên chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu sao đành.
Tình cảm hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ đã trở nên một thứ tình cảm gắn bó. Ca dao đã ví cha mẹ như chuối chín cây, như xôi nếp ngọt, như đường mía lau, để làm ngọt lịm cuộc đời và sự sống của con:
Mẹ già như chuối chín cây
Gió đưa mẹ rụng con rày mồ côi.
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Và do vậy, phận làm con phải luôn kính cha thương mẹ:
Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha.
Tuy nhiên ca dao cũng tích cực lên án những hạng người con bất hiếu, bỏ quên công ơn sinh thành dưỡng dục lao khổ của cha mẹ, trở lại tính tháng đếm ngày với cha mẹ, khi phải nuôi nấng cha mẹ:
Mẹ nuôi con bằng non bằng bể
Con nuôi mẹ con kể từng ngày
***
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
Dĩ nhiên những hạng người vô ân bất hiếu như vậy sẽ không nhớ đến sự khó nhọc và lao khổ của cha mẹ:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày mẹ thức đủ trọn năm.
Mặt khác, ca dao cũng không quên nhắc đến những trang nam tử, những thiện nữ nhân thành tâm hiếu dưỡng cha mẹ hết lòng, sớm thăm tối viếng:
Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Ca dao cũng khen ngợi những người con có hiếu thảo, tảo tần chịu gian khó, hiếu dưỡng cha mẹ từng cái ăn cái uống, cho thỏa dạ chân tình:
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Hay tình cảm thống thiết của người con chẳng quản giàu nghèo, dưỡng nuôi cha mẹ, bằng tất cả những gì có được, dù phẩm vật ấy có thô sơ, đạm bạc:
Dây bầu dây mướp cùng leo
Sớm nuôi cha mẹ nghèo giàu sá chi.
Hoặc cảnh con cái chăm sóc cha mẹ một cách chu đáo cả đêm lẫn ngày: khi cháo cơm, khi đau yếu và ngay cả những khi ra vào gặp tôn nhan của mẹ:
Cù lao đội đức cao dày
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng
Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm.
(Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Ca dao Việt Nam còn tin vào nghiệp báo luân hồi, tin vào sự tái sinh, vào kiếp sống đời sau, tin vào những thiện nhân phước báu mà con cháu làm để hồi hướng cho cha mẹ là có tác hưởng thật sự. Chính hiếu hạnh đó đã cảm hóa tâm tính cha mẹ và cộng với phước báu của con cháu đã tạo mà cha mẹ được nhẹ nhàng lúc mất, và sinh về thế giới an lành, hạnh phúc hơn. Như vậy, ca dao cũng đã chịu ảnh hưởng tinh thần hiếu thảo trong kinh điển Phật giáo:
Đêm nằm niệm Phật Thích-ca
Cầu cho cha mẹ kết hoa liên đài
Về cảnh Phật thấy hoa khai
Trầm luân chấm dứt, đáo lai niết-bàn.
Đồng thời ca dao còn tin vào quy luật nhân quả, ở đây là nhân hiếu quả hiếu, nhân bất hiếu thì quả bất hiếu. Đây chính là bài học thiết thực và có giá trị về chữ hiếu mà người Việt Nam đã sống và thực hiện từ bao đời nay:
Nếu mình hiếu với mẹ cha
Thì con cũng hiếu với ta khác gì
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì hoài công.
Hay ấn tượng hơn qua hình ảnh ẩn dụ của những giọt nước trước sau:
Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận
Ngỗ nghịch thì con có khác chi
Xem thử trước thềm mưa xối nước
Giọt sau giọt trước chẳng sai gì.
Nhờ có một nền tảng giáo dục luân lý đạo đức đặt trên cơ sở hiếu nghĩa như vậy, xã hội Việt Nam, con người Việt Nam đã xứng đáng với truyền thống:
Làm người hiếu nghĩa đi đầu
Hiếu cha hiếu mẹ việc gì không xong.
Trên nền tảng tôn thờ đạo hiếu thảo, xã hội Việt Nam có thể được xem là một xã hội chuẩn mực về đạo đức hiếu thảo và làm người. Tuy nhiên hiếu thảo theo quan niệm ca dao Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Nó chủ yếu dạy con cái hiếu dưỡng song thân về mặt vật chất, và hình như không chú trọng đến yếu tố hiếu dưỡng tinh thần và đời sống đạo đức của cha mẹ, trong khi theo Phật giáo, hiếu dưỡng quan trọng hơn là hiếu dưỡng tinh thần. Đây chính là lý do tại sao chúng ta phải tìm hiểu chữ hiếu qua những lời kinh Phật dạy.
CHỮ HIẾU TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO
Có một sự thật khi nghiên cứu Phật giáo, người ta phải thừa nhận rằng đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến hiếu hạnh, lợi ích của hiếu hạnh và làm thế nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả cao và công đức lớn. Các kinh điển Phật giáo dạy về hiếu hạnh có thể liệt kê sơ bộ sau đây:
* Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên, cứu thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của các bậc cao Tăng và A-la-hán.
* Kinh Báo ân Cha Mẹ nói rõ công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó khăn của cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn trời biển đó.
* Kinh Thai Cốt và Kinh Huyết Bồn cũng có nội dung tương tự như hai kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh công đức của cha mẹ.
* Kinh Hiếu Tử dạy về các phương thức báo hiếu.
* Kinh Tâm Địa Quán với phẩm thứ hai là phẩm báo ân, dạy cách đền ơn cha mẹ của người xuất gia và người tại gia.
* Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân có đến 2 phẩm nói về hiếu hạnh của Phật và Bồ-tát trong các đời sống quá khứ.
* Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của Bồ-tát Địa Tạng và thông qua đó hướng dẫn cách đền ơn cha mẹ ở hiện đời cũng như các đời sống quá khứ.
* Sám Pháp Mục-kiền-liên dạy về cách sám hối và hướng dẫn cha mẹ về chính pháp của đức Phật.
* Kinh Thiện Sinh hay Giáo thọ Thi-ca-la-việt (thuộc kinh điển Pali) dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của xã hội loài người, trong đó có đề cập đến 5 nguyên tắc đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của con cái đối với cha mẹ.
Ngoài ra, những lời dạy về hiếu hạnh đã được đề cập rải rác trong kinh Tăng Chi, thuộc kinh tạng Pali. Còn nhiều kinh sách khác đề cập đến chữ hiếu ở góc độ này hay góc độ khác. Có thể nói, chữ Hiếu được bàn bạc khắp kinh điển Phật giáo đến nỗi người ta có thể phát biểu rằng kinh điển nhà Phật là kinh dạy về Hiếu, đọc kinh Phật giáo là để trở thành người con hiếu thảo. Theo tinh thần lời Phật dạy, người con hiếu là người có thể thành tựu nhiều hạnh lành khác, vì hiếu là nền tảng của muôn hạnh lành, là cơ sở của nhân thừa, là nhịp cầu giải thoát. Để quán triệt tinh thần hiếu thảo ấy, chúng ta lần lượt khảo sát các điểm trọng yếu sau đây:
Biết ơn và đền ơn cha mẹ là hạnh hiếu đáng khen
Trước nhất kinh điển Phật giáo khẳng định rằng người biết ơn và đền ơn cha mẹ là một bậc chân nhân, là người sống gương mẫu ở đời. Một người con được gọi là con hiếu thảo phải là một con người như vậy: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơn và đền ơn đúng pháp.”[1]
Làm con mà không biết ơn cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu. Người như vậy sẽ bị xã hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị suy giảm, và đời sống về sau sẽ bị thối đọa: “Ai thành tựu thân làm ác với cha mẹ, lời nói ác đối với cha mẹ, ý nghĩ ác đối với cha mẹ; không biết ơn, không trả ơn, sẽ tương xứng rơi vào địa ngục và hiện đời sẽ bị đau khổ.”[2]
Kinh còn mô tả hạnh tri ân và đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ là những gì cao quý nhất trên đời. Sự cao quý đó có thể sánh với sự xuất hiện của đức Phật cũng như sự xuất hiện của chính pháp. Người tri ân và báo ân như vậy là người cao quý và hiếm có trên đời: “Sự xuất hiện của Như Lai bậc chính đẳng giác khó tìm được ở đời. Người hoằng truyền chính pháp của Như Lai là khó tìm được ở đời. Người tri ân và báo ân là khó tìm được ở đời.”[3]
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật cũng nói đến vị trí của người con hiếu thảo là vô song và hơn hết các loài động vật khác. Sự vô song này được đức Phật ví với sự vô song của Phật so với các loài hai chân:
Giữa các loài hai chân
Chính giác là tối thắng
Trong các loài con cái
Hiếu thuận là tối thắng.
(Kinh Tương Ưng I. 8)
Kinh Pháp Cú khi đề cập đến các phạm trù hạnh phúc cũng có nói đến sự hiếu kính cha mẹ là hạnh phúc tối thượng ở đời:
Phúc thay, hiếu kính Mẹ
Phúc thay, hiếu kính Cha!
(Kinh Pháp Cú, kệ 332)
Kinh Tăng Chi còn cho biết sự hiếu dưỡng bồi công tích đức cho cha mẹ là một trong những yếu tố chính yếu để được tái sinh về các cõi trời. Chư thiên cõi trời 33 luôn khen tặng những người con có hiếu bằng những lời chúc lành. Chính các vị thiên này cũng nhờ vào hạnh hiếu thảo mà được sanh về thiên giới, làm giảm thiểu cảnh giới A-tu-la: “Phúc thay những người con hiếu kính cha mẹ, làm nhiều công đức để hiếu kính cha mẹ, vì như vậy thiên chúng sẽ được sung mãn và các A-tu-la sẽ bị giảm thiểu”.[4]
Đối với kinh Hạnh Phúc, việc hiếu kính cha mẹ không chỉ là một loại hạnh phúc mà còn là một thứ hạnh phúc tốt lành nhất trong các hạnh phúc của con người:
Sự phụng dưỡng mẹ cha
Là hạnh phúc lớn nhất.
Về sự liên hệ giữa hạnh hiếu và quả báo cõi trời, đức Phật còn cho biết thiên chủ Sakka khi còn là con người do thọ trì bảy giới trong đó hiếu kính cha mẹ đúng pháp là giới thứ nhất mà được quả báo sinh làm Thiên vương Đế Thích.
Ai hiếu dưỡng mẹ cha
Kính trọng bậc gia trưởng
Nói những lời nhu hòa
Từ bỏ lời hai lưỡi
Chế ngự lòng xan tham
Là người con chân thật
Nhiếp phục được phẫn nộ
Với con người như vậy
Chư thiên trời 33
Gọi là bậc chân nhân.
Hình ảnh hiếu dưỡng mẹ và cha đúng pháp không chỉ được gọi là bậc chân nhân, bậc thiện nhân, bậc cao quý, mà còn được so sánh ngang hàng với phạm thiên, với các bậc tiên sư. Những gia đình có được những người con hiếu thảo như vậy được gọi là gia đình xứng đáng được cúng dường và tán thán: “Này các Tỳ-kheo, những gia đình nào mà con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được xem là ngang hàng với Phạm thiên, với các bậc tiên sư và đáng được cúng dường.”[5]
Để giải thích thỏa đáng lý do có sự so sánh ngang hàng này, đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, danh từ Phạm thiên, tiên sư, bậc đáng được cúng dường là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cha mẹ đã đầu tư hầu hết cuộc đời của mình vào công trình nuôi dưỡng, giáo dục và dẫn dắt con cái vào đời.”[6]
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật lại cho biết lợi ích hai đời của hiếu hạnh: hiện đời thì được các bậc hiền thánh khen ngợi và sau khi qua đời thì được sinh vào cảnh giới chư thiên:
Người tu theo thường pháp
Nuôi dưỡng mẹ và cha
Chính do công hạnh này
Mà các bậc hiền thánh
Trong đời thường tán thán
Khi chết được sanh thiên
Hưởng an lạc thù thắng
(Kinh Tương Ưng IB. 203)
Về quả phước mà người con hiếu thảo sẽ gặt hái, kinh Hạnh Phúc còn mô tả kỹ hơn, chi tiết hơn, như đoạn trích dưới đây:
“Người con chí hiếu dù gặp tai nạn như nạn nước hồng thủy, địa chấn (động đất) sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì trọn hưởng gia tài, không bị nghịch cảnh, chướng duyên và nội nghịch ngoại thù. Nếu nghèo thì đời sống trong sạch, thanh nhàn, trời người yêu mến, danh thơm xông khắp, không bị nợ nần, khổ sở, ít bệnh tật, được tăng trưởng tuổi thọ. Trong hiện tại thường được các bậc hiền trí ngợi khen, kết giao thân thiện. Sau khi chết được sinh thiên.”
Tại sao chúng ta phải hiếu kính cha mẹ?
Để trả lời câu hỏi thông thường nhưng quan trọng này, kinh điển Phật giáo đưa ra ba lý do. Thứ nhất về phương diện thai dựng, cha mẹ đã khổ cực cho chúng ta trong suốt chín tháng cưu mang và ba năm bồng ẵm. Thứ hai về phương diện giáo dục, cha mẹ đã nuôi nấng chúng ta trở thành người tốt trong xã hội. Thứ ba là phương diện đạo đức, cha mẹ đã hướng dẫn con cái đến con đường chính pháp của đức Phật.
Về phương diện cực khổ trong thời gian thai dựng
Chín tháng thai dựng là thời gian người mẹ phải chịu nhiều đau khổ và bất tiện nhất. Kinh Phật có nhiều đoạn mô tả rất là thống thiết, chân tình về việc này. Ba năm bú mớm là thời gian mà mẹ và cha bận rộn và hy sinh cho con nhiều nhất. Sau đây là vài đoạn trích cho thấy điều đó: “Này A-nan, Như Lai xem chúng sinh dầu được làm người nhưng lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ nhớ đến công đức của cha mẹ như non bể, không cung kính, không hiếu thảo. Mẹ mang thai con trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên như mang gánh nặng, ăn uống phải kiêng cử, chẳng còn ngon miệng. Ngày tháng thoi đưa, đến kỳ sinh nở, mẹ chịu đau đớn mọi bề. Khi sinh được thân này, mẹ phải ăn đắng nuốt cay, nhả bùi mớm ngọt, nâng nui, dưỡng dục, giặt giũ dơ dáy, không nề gian khổ. Những lúc cơ hàn, tâm khổ, mẹ nằm chỗ ướt, dành chỗ ráo cho con. Sau ba năm bú mớm là nâng niu, dạy bảo đủ điều, cho con ăn học.”[7]
Sám Pháp Mục-Liên thì chép: “Cha mẹ sinh ta, mang thai mười tháng, khổ sở rất nhiều, công ơn chan chứa, nặng như núi Thái, đi lại khó nhọc, ngồi đứng không yên, tánh mạng bấp bênh, như đèn trước gió, ăn uống không ngon, như người đau nặng, thân hình gầy yếu, tinh thần bải hoải. Đến ngày mãn nguyệt, khổ không thể nói, chẳng kể đến mình, mệt nhọc bao nhiêu, chỉ mong cho con sinh được vuông tròn. Bởi thế cho nên, ngày nay chúng ta phải nghĩ đến công đức sâu dày của cha mẹ mà lo báo ân.”[8]
Ở một đoạn khác, Sám pháp này còn diễn tả: “Ơn mẹ khó báo thế mà người đời chỉ ham vui chơi, không nghĩ công mẹ, chẳng thiết báo đền. Không nhớ lúc sinh, mẹ như người ốm. Khi mới mang thai, tinh thần mỏi mệt, ăn uống không ngon, sợ đau thai con, suốt ngày lo lắng, chịu bao khổ não, không thể nói hết.”[9]
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật đưa ra hình ảnh so sánh rất ví von nhưng vô cùng có ý nghĩa: “Này các Tỳ-kheo, sữa mẹ mà các thầy đã uống trong suốt quá trình luân hồi nhiều hơn nước trong bốn biển.”[10]
Vì cha mẹ mà chúng ta được sinh ra, có được tất cả. Do đó, làm con phải thờ kính cha mẹ: “Này bà-la-môn, thế nào là lửa đáng cung kính? Cha mẹ là lửa đáng cung kính, vì từ cha mẹ, chúng ta được tạo nên. Do đó cha mẹ là lửa đáng cung kính, tôn trọng và cúng dường.”[11]
Về phương diện giáo dục con cái
Cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, lo bạn bè, cho ăn học, lập gia thất, chạy thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản tấm thân lao khổ. Những đoạn kinh dưới đây cho thấy công lao dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái: “Cha mẹ dạy điều lễ nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu nghề nghiệp, đưa đón đi về, cần lao chăm chút, chẳng hề kể công. Trái trời lỡ nắng, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, chạy thầy lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, khi bệnh con khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con thảo con hiền.”[12]
Ở một đoạn khác theo thể kệ thơ, công ơn giáo dưỡng của cha mẹ được mô tả đầy đủ như sau:
Mẹ trải bao gian khổ
Công lao tựa núi trời
Bồng bế cùng nuôi dưỡng
Mong sao con lớn khôn
Nhường cơm cùng xẻ áo
Mẹ đói rách cũng vui
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
Công cha cùng đức mẹ
Cao siêu tựa vực trời
Mẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi
Bao giờ ân oán hết
Tắt nghỉ vẫn chẳng thôi.
(Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, 19-20)
Trong kinh Tăng Chi, có đoạn sau đây cũng mô tả cùng một nội dung: “Cha mẹ là đấng đáng được cúng dường. Vì cha mẹ đã giúp đỡ con cái rất nhiều: nuôi chúng lớn, dưỡng dục nên người và giới thiệu chúng vào đời.”[13]
Một đoạn khác trong kinh điển Pali đó là kinh Thiện Sinh hay còn gọi là kinh Thọ Giáo Thi-ca-la-việt còn đề cập đến năm công ơn khác của cha mẹ: “Cha mẹ thương tưởng con cái theo năm cách: ngăn chặn con làm việc ác, khích lệ con làm điều thiện, dạy cho con nghề nghiệp, lập hôn nhân xứng đáng cho con và trao của thừa tự đúng thời.”[14]
Về phương diện hướng dẫn con vào chính pháp
Đây là phương diện quan trọng và quyết định đời sống đạo đức và trí tuệ của con cái. Chính từ phương diện này, hiếu hạnh trong Phật giáo đã vượt trội hơn hiếu hạnh theo quan niệm thông thường. Tương tự, ở đây, chúng ta thấy vai trò của cha mẹ là vô song trong việc hướng dẫn con cái theo con đường chính pháp của Phật. Về điều này, kinh Phân Biệt và Đại Phương Tiện Phật Báo Ân ghi: “Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn đến nay mới thành Phật toàn là công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên người học đạo không thể không tinh tấn hiếu thảo cha mẹ.”
Kinh Tăng Chi còn nêu rõ bốn cẩm nang đạo đức đắc nhân tâm là các tiêu chí mà các bậc cha mẹ nên giáo dục cho con của mình:
Bố thí và ái ngữ
Lợi hành và đồng sự
Đối với bốn pháp này
Cha mẹ dạy cho con
Khéo xử sự ở đời
Chỗ này và chỗ kia
Như vậy thật tương xứng
Đạt được an lạc lớn
(Kinh Tăng Chi I. 387)
Mục Liên Sám Pháp cũng nêu ra tiêu chí giáo dục chính pháp cho con như sau: “Khi con lớn khôn, hiểu biết việc đời, hướng đạo cho con, hoặc cho xuất gia, tu học đạo pháp, trở thành giải thoát. Ân đức như thế thật khó đáp đền”.[15]
Đền ơn cha mẹ bằng cách nào?
Về phương thức báo hiếu, một lần nữa những lời dạy của Phật tỏ ra chu đáo và toàn diện hơn các tôn giáo và triết thuyết khác. Theo tinh thần lời Phật dạy, người Phật tử sẽ đền ơn cha mẹ trên hai phương diện vật chất và tinh thần, tương thích với chính pháp.
Báo hiếu về phương diện vật chất
Trước nhất những người con nên báo đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng và lòng thương kính. Nuôi dưỡng cha mẹ bằng tất cả khả năng của mình. Dĩ nhiên trong khi đền đáp công ơn của cha mẹ, người con hiếu thảo không nên hiếu dưỡng với ý niệm kể công “tính tháng tính ngày” hay “kể lể từng ngày” mà phải nuôi dưỡng cha mẹ với bầu nhiệt huyết của sự kính thương và lòng hãnh diện, vì người Phật tử sẽ nhận thức được rằng “không có thứ hạnh phúc nào to lớn và quý báu cho bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với ta.” Cha mẹ là niềm phúc đức và niềm an lạc cho con cái. Cha mẹ là một nửa hồn và máu huyết của con cái. Cha mẹ đã đóng góp đời mình cho sự trưởng thành của con cái. Cha mẹ là tất cả, là của con và vì con. Do đó, làm con hiếu thảo phải phụng dưỡng và kính thờ cha mẹ đúng pháp.
Một điểm đặc biệt mà chúng ta cần lưu ý là phương thức đền đáp công ơn cha mẹ về phương diện vật chất rất được xem trọng trong Phật giáo. Chính từ phương thức này chúng ta mới có thể đánh giá một cách thực tế thế nào là một người con hiếu thảo đúng nghĩa. Trong kinh Phật dạy, mọi tài sản vật chất mà con cái đền đáp cho cha mẹ phải là những thứ tài sản hợp pháp, chân chính, phát sinh từ đời sống chính mạng và chính nghiệp. Người con nuôi dưỡng cha mẹ bằng các nghề bất chính, vi phạm pháp luật, tổn thương hạnh phúc của người khác hẳn không phải là cách báo hiếu có ý nghĩa và nhất là có thể vô tình gián tiếp đưa cha mẹ vào vòng ảnh hưởng của một cộng nghiệp bất thiện và tội lỗi. Cách hiếu dưỡng cha mẹ như vậy thực chất là hại cha mẹ, chứ không phải là hiếu dưỡng theo lời Phật dạy.
Trong kinh Dhananjani, tôn giả Xá-lợi-phất thay lời đức Phật giải thích cho bà-la-môn về cái sai và cái đúng, cái nên làm và cái không nên làm trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ: “Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ mà làm các điều phi pháp, bất chính. Vì người làm như vậy sẽ bị quỷ sứ kéo vào địa ngục. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không thể viện lý vì muốn cho cha mẹ sung sướng, vui lòng, để bào chữa cho mình là vô tội. Hành động như vậy sẽ bị thác đọa địa ngục dù nó có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể lể”.[16]
Chính vì thế chúng ta thấy hành động hiếu thuận, hiếu dưỡng của người con chí hiếu phải được thiết lập trên đạo đức nhân quả. Người con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ và có lợi cho mình mà không gây bất cứ tổn hại nào cho tha nhân. Hành vi hiếu thảo mà không hội đủ tiêu chí này không thể gọi là Hiếu đúng nghĩa. Hiếu hạnh trong đạo Phật được đặt trên định hướng đạo đức và nhân quả. Do đó, quả báo của Hiếu hạnh sẽ là sự an lạc từ hành vi báo hiếu chân chính, làm cho cha mẹ hoan hỷ, và hạnh phúc thật sự. Tiêu chí báo hiếu đó được đoạn kinh dưới đây mô tả thật cô đọng và đủ nghĩa: “Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã nỗ lực thâu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt mồ hôi đổ ra một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ với thiện ý thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và hằng cầu mong cho con được sống lâu, mạnh giỏi. Này Mahanam, người con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và mong cầu như vậy thì gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không bao giờ bị suy giảm.”[17]
Trong rất nhiều kinh, đức Phật luôn luôn cảnh tỉnh mọi người không nên chỉ vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tạo tác các nghiệp phi pháp, bất chính, tổn hại mình và người. Đức Phật cũng thường nhắc đi nhắc lại rằng sự hiếu kính đúng nghĩa có giá trị, có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của các hành vi và nghề nghiệp chân chính, phù hợp với luật pháp xã hội. Với cách báo ân bằng đời sống chính mạng và chính nghiệp như vậy, đức Phật mới tán thán, khuyến khích:
Người nào theo thường pháp
Nuôi dưỡng mẹ và cha
Chính do công hạnh này
Đối với cha và mẹ
Nhờ vậy bậc hiền thánh
Trong đời này tán thán
Sau khi chết được sinh
Hưởng an lạc chư thiên
(Kinh Tương Ưng I. 225)
Ở một đoạn kinh khác, đức Phật cũng huấn thị tương tự. Người con hiếu thảo đúng pháp phải tinh thấn, dốc lòng hiếu kính cha mẹ và nhờ nhân hiếu dưỡng này khi qua đời sẽ được thác sinh về trời Tự Tại Quang:
Thờ cha mẹ đúng pháp
Buôn bán đúng, thật thà
Gia chủ không phóng dật
Được sanh Tự Quang thiên
(Sutanipana, kệ 401)
Trong kinh Thọ giáo Thi-ca-la-việt, đức Phật đã nêu ra năm tiêu chí đạo đức phù hợp với chính pháp mà một người con hiếu thảo cần phải thực hiện để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Năm tiêu chí đó như sau: “Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp, làm tròn bổn phận con cái, giữ gìn gia phong và truyền thống, bảo vệ tốt các tài sản thừa tự và chu đáo tang lễ khi cha mẹ qua đời.”[18]
Nói một cách khác, theo đức Phật, người con hiếu thảo đền ơn cha mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó phải bao gồm vật chất lẫn tinh thần. Bởi lẽ mục đích của cuộc sống nhân sinh không chỉ phải là có được chén cơm manh áo mà thôi. Người ta phải cần đến chân lý, đạo đức và đời sống tinh thần như cây cỏ cần ánh sáng, con người cần không khí để sống vậy. Do đó báo hiếu chỉ đơn thuần về phương diện vật chất sẽ có giá trị hạn chế hơn so với báo hiếu về phương diện tinh thần: “Hiện tiền đại chúng hãy nên biết rằng, ân đức cha mẹ không bến không bờ, thực khó đáp đền. Dù trăm nghìn đời nghiền thân làm vị đề hồ dâng cúng cho cha mẹ cũng không báo đáp hết công ơn cha mẹ. Nếu lại có người dâng các thức ăn, trăm vị ngon ngọt, dâng các áo mặc, thuốc thang đầy đủ, suốt ngày lễ lạy, cúng dường cha mẹ cũng không báo đáp được công ơn dưỡng dục.”[19]
Kinh Hiếu Tử dạy hiếu về vật chất mà thôi chưa phải là hiếu theo tinh thần Phật dạy: “Con nuôi cha mẹ, dâng thức ăn quý, ngon miệng cha mẹ, hòa nhạc du dương, vui tai cha mẹ, sắm áo lụa là, mát thân cha mẹ, vai cõng cha mẹ đi khắp thiên hạ, tuy làm như thế chưa phải là hiếu.”
Tương tự, kinh Tăng Chi thuộc kinh tạng Pali cũng nêu rõ giới hạn của việc báo đáp cha mẹ bằng đời sống vật chất: “Có hai hạng người, này các tỳ-kheo, ta nói không thể trả ơn được đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm như vậy suốt đời vừa đấm bóp hầu hạ, và dù tại đó, cha mẹ có khạc nhổ tiểu tiện đại tiện, cũng chưa đủ đền ơn cha mẹ.”[20]
Trong kinh Báo Trọng Ân Phụ Mẫu, đức Phật đưa ra nhiều so sánh để nhằm khẳng định sự việc báo ơn cha mẹ bằng vật chất, dù là đúng pháp, vẫn chưa trọn nghĩa hiếu tình. Dưới đây là vài đoạn trích tiêu biểu:
“Ví có kẻ nào hai vai kiệu cõng cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận. Cho dù như vậy cũng chưa báo đáp được công đức cha mẹ kể trong muôn một.”
“Ví lại có người khi gặp đói kém, cắt hết thịt mình, dưỡng nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nan, riêng mình cam chịu trăm ngàn muôn kiếp để báo thâm ân, chẳng được một phần kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp tự tay cầm dao khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha như thế cũng là chưa trả được ân kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng đao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt đèn cúng dường chư Phật như thế cũng chưa trả được ân kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy để làm thang thuốc chữa bệnh cho cha mẹ như thế cũng chưa trả được ân kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì cứu mẹ cha, nuốt viên sắt nóng sém cả mình như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một.”
Các trích dẫn trên cho thấy đạo Phật ngoài việc hướng dẫn con cái hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống vật chất, cần phải biết cách hiếu dưỡng cha mẹ về đạo đức và tinh thần. Nói khác hơn, hiếu thảo về vật chất là thứ yếu trong khi hiếu dưỡng về tinh thần là trọng yếu nhất.
Hiếu thảo về phương diện tâm thức hay tinh thần
Về phương diện này, trước nhất, người con hiếu thảo phải tự nỗi lực gột bỏ các bợn nhơ của tâm lý như tham lam, sân hận, si mê, từ bỏ sự giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình cảm bất chính, không nói láo, không uống rượu và các chất kích thích tố có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ lực làm các việc thiện đem lại lợi ích cho mình và tha nhân. Nói chung hiếu thảo trước nhất là biết cách hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để cha mẹ an tâm, hoan hỷ và hãnh diện: “Làm con hiếu thảo theo lời kinh dạy là cố gắng tu trì, diệt trừ tội chướng, thanh tịnh hành vi, cha mẹ hiện tiền sống lâu trăm tuổi, tổ tiên quá khứ rũ sạch oan khiên.”[21]
Nói cách khác theo đức Phật một trong những cách sống có hiếu thảo với cha mẹ là làm điều thiện và phước báu cho mình và người: “Tất cả mọi người nên phát tâm làm mọi phước đức để báo đáp ân sâu, cha mẹ hiện tiền, cha mẹ quá khứ đều nhờ công đức ấy mà được vãng sinh về Tịnh độ.”[22]
Ngoài ra, Sám pháp này còn dạy chúng ta, một mặt hiếu dưỡng song thân, một mặt cúng dường ba ngôi báu để gieo phúc, giữ gìn đời sống đạo đức và tô bồi công đức bằng cách làm các việc lành. Đây mới là cách báo hiếu có giá trị đạo đức cao: “Tất cả đại chúng nên phát tâm thành, cúng dường tam bảo, hiếu thuận mẹ cha, thọ trì Phật giới, tu mọi hạnh lành, cúng dường cha mẹ như cúng dường Phật, mong báo thâm ân.”[23]
Mặt khác, người con hiếu thảo còn phải biết tích tập các công đức làm được để hồi hướng cho cha mẹ đã quá cố để đền đáp thâm ân: “Nên phát hiếu tâm làm mọi việc lành, dựng nên đạo tràng, cúng dường tam bảo, tụng kinh lễ sám, sám hối phát nguyện, tu các công đức, hồi hướng cha mẹ, hiện tại và quá khứ.”[24]
Hay,
“Làm con hiếu thảo phải thuận kính cha mẹ, báo đáp ân sâu, quy y tam bảo, kiên trì trai giới, thiết lập đạo tràng, siêng tu sám pháp, cầu xin sám hối thay cho cha mẹ, mong độ cha mẹ thoát khỏi huyết bồn, sanh về cõi trời hưởng mọi an lạc.”[25]
Kế đến, người con hiếu thảo ngoài việc hoàn thiện nhân cách đạo đức, tìm con đường giác ngộ, giải thoát cho chính mình, còn phải biết khéo léo hướng cha mẹ bỏ tà về chính, khuyên cha mẹ làm các việc lành để giúp cha mẹ loại trừ các nghiệp ác, thành tựu nhân tố giác ngộ, để cha mẹ có thể tự mình an lạc và giải thoát: “Hiện tiền đại chúng thiện nam tín nữ phải phát hiếu tâm cúng dường cha mẹ, khuyên tu thập thiện, cùng chứng đạo quả, cùng thành bồ-đề, đời này an vui, đời sau hạnh phúc.”[26]
Nói cách khác, theo đức Phật, người con có hiếu thảo không phải là người con “cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó” hay chỉ biết “vâng dạ nuông chiều.” Trái lại, người con hiếu phải đầy đủ bản lĩnh, sẵn sàng và khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chân chính, lợi ích, để cha mẹ thật sự an lạc: “Nếu cha mẹ ương ngạnh, si mê tà kiến, không tin Tam Bảo, hung hiểm bạo ngược, tàn ác bất nhân, gây nhiều nghiệp dữ, người con có hiếu phải biết khuyên can cha mẹ, khiến sinh tín tâm, quay về chính đạo, gần gũi bạn lành, mở lòng bồ-đề, tu thiền niệm Phật, làm cho cha mẹ thường được an ổn.”[27]
Trong kinh Tăng Chi đức Phật cũng dạy tương tự: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chính giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chính kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha.”[28]
Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần đáp ứng cho cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời. Hiếu trong Phật giáo được đặt vào trong mục tiêu hướng đến đời sống đạo đức và trí tuệ của cha mẹ và bản thân. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, một sự giới thiệu, một sự tương duyên, một thiện tri thức để cha mẹ và con cái cùng bước đi trên con đường chân thiện mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chính pháp của đức Phật. Như vậy, hiếu phải được thực hiện trong ánh sánh chân lý của đức Phật, trên nền tảng bát chính đạo, trên cơ sở của đạo đức, thiền định và trí tuệ. Đây là cách trang bị cho cha mẹ đầy đủ giới, định, huệ để cùng hướng đến giải thoát, như đoạn kinh dưới đây mô tả: “Có con đường đưa đến từ bỏ, vượt qua sợ hãi của sinh già bệnh chết, không làm chia rẽ mẹ con, đó là con đường thánh gồm tám nhánh, chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định.”[29]
Nói tóm lại, hiếu trong kinh điển Phật giáo phải thể hiện trọn vẹn cả hai phương diện hiếu dưỡng vật chất và hiếu dưỡng tinh thần. Để hiếu dưỡng cha mẹ về vật chất, người con phải tận tụy nuôi nấng, chăm sóc, tôn kính cha mẹ đúng pháp, phục vụ cha mẹ bằng mồ hôi và tài sản có được từ nếp sống lành mạnh, chân chính, làm cho cha mẹ sống an vui, thoải mái với những tình cảm tốt đẹp nhất.
Để hiếu dưỡng cha mẹ về phương diện tinh thần, người con trước hết phải tự trau dồi tốt bản thân mình, làm tất cả những gì tốt đẹp nhất, xa lánh những điều xấu xa, tội lỗi, đem tiếng thơm về cho gia đình, để cho cha mẹ có thể tự hào và hãnh diện với mọi người. Kế đến nếu cha mẹ chưa biết Tam bảo thì phải khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về quy y và sống dưới ánh sáng của chính pháp, trau dồi chính kiến, đức hạnh chân chính, làm hành trang cho một đời sống an lạc và hạnh phúc hiện tại và về sau. Nội dung hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống tinh thần chính là mục tiêu giáo dục của đức Phật. Đây chính là điểm vượt trội của Phật giáo so với ca dao Việt Nam cũng như chữ Hiếu trong các tôn giáo và học thuyết khác từ trước đến giờ.
Chữ Hiếu trong Phật giáo xây dựng chính yếu trên nền tảng lợi ích thiết thực hiện tại và lợi ích an lạc giải thoát. Chữ Hiếu như vậy thực chất đã trở thành một phương tiện thể hiện hành “lợi hành và đồng sự” cùng cha mẹ kết làm thiện tri thức, l trên con đường thực hành chính pháp của đức Phật, tại đây và bây giờ. Hiếu như vậy đã trở thành một phương tiện của đạo đức và giải thoát cho mình và người.
Hy vọng những điều trên đây sẽ có thể giúp cho bạn đọc hình dung trọn vẹn tinh thần hiếu đạo, báo ân cha mẹ trong Phật giáo và từ đó để mỗi chúng ta sẽ thể hiện nếp sống hiếu đạo phù hợp với lời Phật dạy, trong một chiều kích lợi ích lớn hơn. Đạo hiếu trong Phật giáo mang nhiều giá trị giáo dục đạo đức. Do đó, phàm làm con, bất luận là người xuất gia hay tại gia, phải có ý thức trách nhiệm đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách đúng pháp và trọn vẹn không chỉ trong mùa Vu-lan mà phải ở mọi lúc và mọi nơi. Đó là cách gây dựng hạnh phúc cho bản thân mình, gia đình mình, cha mẹ mình cũng như tha nhân. Hiếu hạnh như vậy không chỉ có giá trị giáo dục cho bản thân mà còn là điểm nương cho tha nhân noi theo.
[1]. Kinh Tăng Chi I. 75
[2]. Kinh Tăng Chi I. 637.
[3]. Kinh Tăng Chi I. 306.
[4]. Kinh Tăng Chi I. 459-60.
[5]. Kinh Tăng Chi I. 147.
[6]. Kinh Tăng Chi I. 124.
[7]. Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, Sen Vàng xuất bản, 20-21.
[8]. Sám Pháp Mục-Liên, 135-6.
[9]. Sám Pháp Mục-Liên, 139.
[10]. Kinh Tương Ưng IIB. 117.
[11]. Kinh Tăng Chi III. 31.
[12]. Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, 21-22.
[13]. Kinh Tăng Chi I, 147.
[14]. Trường bộ Kinh II, Đại Tạng Kinh Việt Nam, tr. 542.
[15]. Sám Pháp Mục-Liên, 127.
[16]. Kinh Trung Bộ II. 188A.
[17]. Kinh Tăng Chi III. 69.
[18]. Trường Bộ Kinh II, Đại tạng kinh Việt Nam, tr. 542.
[19]. Sám Pháp Mục-liên, 141.
[20]. Kinh Tăng Chi I. 75.
[21]. Sám Pháp Mục-Liên, 46.
[22]. Sám Pháp Mục-Liên, 46-7.
[23]. Sám Pháp Mục-Liên, 93.
[24]. Sám Pháp Mục-Liên, 97.
[25]. Sám Pháp Mục-Liên, 127-8.
[26]. Sám Pháp Mục-Liên, 147.
[27]. Sám Pháp Mục-Liên, 142.
[28]. Tăng Chi bộ Kinh I. 75.
[29]. Kinh Tăng Chi I. 203.