Kết thúc mùa An cư 2014, sau một năm xuất bản, “Kinh Phật cho người tại gia” được tái bản lần thứ ba. Điều này cho thấy việc đọc tụng và thọ trì bộ Kinh này đã trở thành nhu cầu ngày càng lớn tại các tự viện và tư gia. Ấn bản lần thứ ba này chủ yếu bổ sung các bài sám nguyện, hiệu chỉnh một vài lỗi kỹ thuật và đính chính các lỗi chính tả. Hy vọng qua ấn bản này, Kinh Phật cho người tại gia ngày càng được giới hành giả chọn lựa cho việc đọc tụng và thọ trì.
MỤC LỤC
Lời tựa cho lần tái bản thứ 3
Lời nói đầu
Ý nghĩa và cách thức tụng kinh
A. PHẦN DẪN NHẬP
1. Nguyện hương
2. Đảnh lễ Tam bảo
3. Tán hương
4. Tán dương giáo pháp
B. PHẦN CHÁNH KINH
I. CÁC KINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Kinh tiểu sử đức Phật
2. Kinh người áo trắng
3. Kinh mười nghiệp thiện
4. Phật nói kinh tám điều trai giới
5. Kinh nhân quả đạo đức
6. Kinh lời vàng Phật dạy
7. Kinh soi gương nhân cách
8. Kinh phân biệt nghiệp báo
9. Kinh định luật nghiệp
10. Kinh nghiệp tạo sai biệt
11. Kinh chuyển hóa nghiệp chướng
12. Kinh phước thế gian
II. CÁC KINH VỀ GIA ĐÌNH, XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ
13. Kinh thiện sinh
14. Kinh phước đức
15. Kinh tránh xa cánh cửa bại vong
16. Kinh bảy loại vợ
17. Kinh bốn ân lớn
18. Kinh mọi người bình đẳng
19. Kinh không có giai cấp
20. Kinh sống trong hòa hợp
21. Kinh hóa giải tranh cãi
22. Kinh hòa hợp và hòa giải
23. Kinh chuyển luân thánh vương
24. Kinh đức hạnh của vua và tu sĩ
25. Kinh quốc gia cường thịnh
26. Kinh Hiền Nhân
III. CÁC KINH VỀ TRIẾT LÝ
27. Kinh chuyển pháp luân
28. Kinh mười hai nhân duyên
29. Kinh chánh tri kiến
30. Kinh ba dấu ấn thực tại
31. Kinh thực tập vô ngã
32. Kinh nhận diện vô ngã
33. Kinh chuyển hóa cái tôi
34. Kinh nền tảng đức tin
35. Kinh kiến thức và trí tuệ
36. Kinh thuyết minh và xác minh
37. Kinh bảy điều nên biết
38. Kinh ẩn dụ về bảy hạng người dưới nước
39. Kinh tham ái là gốc khổ đau
40. Kinh dụ ngôn người bắt rắn
41. Kinh lời Phật qua các con số
42. Kinh nương tưạ ai khi Phật qua đời?
IV. CÁC KINH VỀ THIỀN VÀ CHUYỂN HÓA
43. Kinh cốt lõi thiền tập
44. Kinh bốn pháp quán niệm
45. Kinh quán niệm hơi thở
46. Kinh các cấp thiền quán
47. Kinh bốn loại hành thiền
48. Kinh ẩn dụ về thành trì
49. Kinh sống trong hiện tại
50. Kinh căn bản tu tập
51. Kinh tu các pháp lành
52. Kinh phát tâm bồ đề
53. Phật nói kinh bốn vô lượng tâm
54. Kinh từ bi và hồi hướng
55. Kinh tám điều giác ngộ
56. Kinh bảy cách dứt trừ khổ đau
V. CÁC KINH VỀ TỊNH ĐỘ
57. Kinh Phổ Môn
58. Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Phật Dược Sư
59. Kinh A Di Đà
60. Kinh Sám hối sáu căn
61. Kinh Sám hối hồng danh
62. Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
63. Phật Nói Kinh Báo Hiếu Công Ơn Cha Mẹ
C. PHẦN SÁM NGUYỆN
1. Bát-nhã Tâm kinh
2. Niệm Phật
3. Năm điều quán tưởng
4. Quán chiếu thực tại
5. Sám nguyện (chọn một trong chín bài sám dưới đây)
a) Sám mười nguyện Phổ Hiền
b) Sám quy mạng
c) Sám quy y
d) Sám quy nguyện 1
đ) Sám tu tập
e) Sám quy nguyện 2
f) Sám nguyện
g) Sám hồng trần
h) Sám tống táng
6. Hồi hướng công đức
7. Lời nguyện cuối
8. Đảnh lễ Ba ngôi báu
D. PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Xuất xứ các bài Kinh và sám nguyện
Phụ Lục 2: Các ngày lễ trong hai truyền thống Phật giáo
Phụ lục 3: Các ngày ăn chay
Phụ lục 4: Sách đồng tác giả
LỜI TỰA CHO LẦN TÁI BẢN THỨ 3
Kết thúc mùa An cư 2014, sau một năm xuất bản, “Kinh Phật cho người tại gia”[1] được tái bản lần thứ ba. Điều này cho thấy việc đọc tụng và thọ trì bộ Kinh này đã trở thành nhu cầu ngày càng lớn tại các tự viện và tư gia. Ấn bản lần thứ ba này chủ yếu bổ sung các bài sám nguyện, hiệu chỉnh một vài lỗi kỹ thuật và đính chính các lỗi chính tả.
Hy vọng qua ấn bản này, Kinh Phật cho người tại gia ngày càng được giới hành giả chọn lựa cho việc đọc tụng và thọ trì. Vì là bộ Kinh phục vụ cho mục đích “tụng trì” tại các chùa và các tư gia, việc soạn dịch bộ Kinh này được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây.
I. CHỦ ĐỀ KINH VÀ THÁI ĐỘ TỤNG KINH
1. Nội dung và chủ đề
Tính theo bài kinh, bộ Kinh này có 63 bài,[2] được phân thành 5 loại chủ đề: (i) Các Kinh về đạo đức, (ii) Các Kinh về gia đình, xã hội và chính trị, (iii) Các Kinh về triết lý, (iv) Các Kinh về thiền định và phương pháp chuyển hóa khổ đau, và (v) Các Kinh về Tịnh Độ.
Trong 5 nhóm kinh nêu trên, các kinh về Tịnh Độ là tuyển tập 7 bài kinh và nghi thức quen thuộc nhất và thông dụng nhất trong các chùa Bắc tông tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Nam, Bắc Triều Tiên. Dù chủ đề các bài kinh này tương đối rộng, theo thói quen sử dụng, đối tượng phục vụ của các bài kinh này rất hạn hẹp. Kinh Phổ Môn và Kinh Dược Sưthường được sử dụng trong Nghi thức cầu an cho người già và người bệnh. Kinh A-di-đà, Kinh Vu-lan-bồn và Kinh báo trọng ân của cha mẹ được sử dụng trong Nghi thức cầu siêu cho người quá vãng. Nghi thức Sám hối Hồng danh do Tổ sư Trung Quốc soạn và Nghi thức Sám hối Sáu căn được tôi biên tập từ quyển “Khóa Hư Lục” của vua Trần Thái Tông, thường được sử dụng cho những người có tội về luật pháp và lỗi về dân sự.
Vì Kinh Địa Tạng đã trở thành nghi thức riêng, gồm 13 chương, hơn 200 trang, không tiện liệt vào nhóm kinh Tịnh Độ của bộ Kinh này. Quý độc giả có thể đón nhận Kinh Địa Tạng do tôi dịch và ấn tống tại chùa Giác Ngộ hoặc đọc ấn bản e-book trên trang web Đạo Phật Ngày Nay.[3]
Vì mục đích dành cho người tại gia, 4 nhóm kinh còn lại (ngoài nhóm kinh Tịnh Độ) là những đóng góp mới so với các nghi thức tụng niệm truyền thống tại các chùa Việt Nam. Các Kinh Nhật tụng tại Việt Nam, chủ yếu phiên âm Hán Việt, phần lớn dựa vào ấn bản kinh tụng đời Thanh của Trung Quốc. Từ nhiều thế kỷ qua người Việt Nam đọc tụng Kinh Nhật tụng bằng âm Hán Việt gặp phải những khó khăn và rào cản ngôn ngữ. Kết quả là, Phật tử tại gia không thể hiểu được những lời dạy minh triết và đạo đức của đức Phật, dẫn đến tình trạng xem Phật như thượng đế, các Bồ-tát như các thần linh và đọc kinh trả bài với Phật để cầu bình an và phước báu.
Mặt khác, vì các Kinh Nhật tụng chỉ vọn vẹn chưa được 10 kinh, mà phần lớn là kinh thiên về tín ngưỡng, người đọc tụng khó có thể có cái nhìn hệ thống và toàn diện về triết lý Phật giáo. Nghi thức đọc tụng[4]được chúng tôi phiên dịch thuần Việt nhiều năm trước và ấn bản hợp tuyển đầy đủ nhất được xuất bản năm 2011. Trong Nghi thức tụng niệm, ngoài yếu tố thuần Việt, tôi đã bổ sung Kinh Di giáo vào nghi thức công phu khuya, ngoài ra còn có các nghi thức sám hối sáu căn, nghi thức hô chuông, nghi thức an vị Phật, nghi thức phóng sanh, nghi thức tết Nguyên Đán, nghi thức quy y Tam Bảo, nghi thức lễ thành hôn và nghi thức xuất gia. Sự ra đời của bộ Kinh Phật cho người tại gia nhằm bổ túc cho sự khiếm khuyết của các nghi thức Hán Việt trước đây, do ảnh hưởng từ các nghi thức tụng niệm của Trung Quốc.
Đây là lần đầu tiên, Kinh Phật cho người tại gia hội đủ các bài kinh cần thiết cho những người sống đời sống gia đình. Nói cách khác, từ trước đến giờ, các vị Tăng sĩ phải sử dụng cộng thông nghi thức tụng niệm với người tại gia. Theo chúng tôi, đây là điều không thích hợp về phương pháp và nội dung, vốn rất khác nhau, mặc dầu có thể bổ túc cho nhau. Nếu người tại gia chỉ cần nắm vững những bài kinh đức Phật dạy riêng cho mình thì người xuất gia ngoài các bài kinh phù hợp với giới xuất gia,[5] cần nắm vững cần các bài kinh tại gia để hướng dẫn họ.
2. Thái độ tụng Kinh
Mỗi ngày đọc tụng 45 đến 60 phút theo trình tự các bài kinh, trung bình một tháng đến tháng rưỡi, người tại gia có cơ hội đọc hết 62 bài kinh dành cho mình. Cách đọc tụng này giúp người tại gia tăng trưởng văn tuệ (trí tuệ do đọc rộng, nghe nhiều về Phật pháp) và tư tuệ (trí tuệ do nghiền ngẫm Phật pháp). Nhờ nắm vững nhiều bài kinh thông qua việc đọc tụng bản dịch thuần Việt, người tại gia dễ tiêu hóa và ứng dụng lời Phật dạy trong gia đình, tại công sở, nơi chợ búa, và bất cứ nơi nào họ đang sống.
Để việc đọc tụng kinh điển đúng với tinh thần của đức Phật, người đọc tụng nên tránh ba thái độ sai lầm sau đây: (a) lễ bái hóa kinh điển, tức đọc một đoạn kinh, một câu kinh, hoặc một chữ kinh lạy một lạy, (b) tụng kinh để cầu phước báu, đang khi giá trị của tụng kinh là mở mang trí tuệ và an tĩnh tâm, (c) tụng kinh để tính công với Phật nên thường tụng quá nhanh, thậm chí thuộc làu nhưng chẳng hiểu gì hết.
Đọc bộ Kinh này theo trình tự trước sau, người đọc tụng trải nghiệm đạo đức (gồm 12 bài), nắm vững kỹ năng hạnh phúc vợ chồng, chăm sóc gia đình, phụng sự cộng đồng, quản trị đất nước (gồm 15 bài), góp phần xây dựng thế giới hòa bình, trên nền tảng công bằng xã hội, bình đẳng giới, tôn trọng dân chủ và nhân quyền. Các kinh về triết lý (16 bài) giới thiệu bao quát về nhập môn triết học Phật giáo. Các kinh về thiền và chuyển hóa (14 bài) hướng dẫn các kỹ năng và phương pháp thiền của chính đức Phật, vốn khác với thiền Công án và thiền Thoại đầu của Trung Quốc. Trong nhóm kinh này còn có các bài kinh hướng dẫn phương pháp chuyển hóa khổ đau.
3. Thời điểm đọc tụng
Vì Kinh Phật cho người tại gia có đối tượng không thuộc nhóm tu sĩ, bất cứ thành phần xã hội nào, hễ là Phật tử, nên đọc tụng và thọ trì kinh này vào các thời điểm thích hợp trong ngày, hay tối thiểu trong tuần.
Tại các chùa Bắc truyền, khóa lễ cộng thông cho người tại gia thường diễn ra vào buổi tối, có nơi bắt đầu lúc 18 giờ, có nơi bắt đầu lúc 19 giờ. Thời khóa buổi tối thích hợp nhất cho việc đọc tụng bộ Kinh này tại các tự viện hay tư gia.
Phật tử sống xa chùa hoặc ở những nơi không có chùa, không thể tham dự các thời kinh buổi tối, có thể đọc tụng kinh này tại nhà, hay đang khi ngồi trên các phương tiện giao thông (máy bay, xe lửa, xe điện, xe hơi, tàu, v.v…), tại công sở hoặc ở chợ; đồng thời có thể đọc hoặc tụng vào bất kỳ thời điểm nào mà người đọc tụng cảm thấy thích hợp.
Thời lượng đọc tụng trung bình mỗi ngày là 45-60 phút. Đây là thời lượng tối thiểu mà người hành trì nên dành ra để chăm sóc đời sống tinh thần. Như công thức “mưa dầm thấm đất”, thọ trì thường xuyên và liên tục giúp người hành trì “thâm nhập kinh tạng”, nhờ đó, có thể sử dụng trí tuệ giải quyết các vấn nạn, chuyển hóa khổ đau trong cuộc sống hiện thực.
Người Phật tử nên tập thói quen mỗi ngày đọc tụng bộ Kinh này hoặc buổi khuya, buổi sáng, buổi chiều hoặc buổi tối. Khi đi công tác, hoặc đi du lịch, người hành trì nên tập thói quen mang Kinh Phật cho người tại gia theo để đọc tụng và khai sáng bản thân. Mỗi thành viên trong mỗi nhà đều nên có bộ Kinh này để hoặc cùng đọc chung trong những dịp hội ngộ đủ các thành viên trong nhà, hoặc đọc tụng riêng trong các hoàn cảnh khác nhau.
II. PHONG CÁCH SOẠN DỊCH
1. Khái niệm “soạn dịch” và xuất xứ các bài Kinh
Kinh Phật cho người tại gia gồm ba phần: Phần dẫn nhập, phần chánh Kinh và phần sám nguyện. Phần chánh Kinh là phần do tôi phiên dịch từ việc tuyển chọn các bài Kinh có chủ đề và nội dung cần thiết cho Phật tử tại gia. Đây là phần đóng góp mới, so với các nghi thức tụng niệm tại Việt Nam bị ảnh hưởng từ nghi thức tụng niệm của Trung Quốc.
Khái niệm “soạn” trong từ “soạn dịch” được áp dụng với quyển Kinh Phật cho người tại gia được hiểu là “biên tập” trong phần dẫn nhập và phần sám nguyện. Trong phần chánh Kinh, chỉ có Kinh tiểu sử đức Phật thuộc dạng dịch hợp tuyển, trong khi 62 bài kinh còn lại thuộc dạng phiên dịch.
Phần dẫn nhập và phần sám nguyện là do tôi biên tập, bố cục theo tinh thần của nghi thức tụng niệm truyền thống. Trong phần dẫn nhập, các mục “Nguyện hương” (mục 1) và “Đảnh lễ Tam bảo” (mục 2) là do tôi biên soạn mới, mục “Tán hương” (mục 3) và “Tán dương giáo pháp” (mục 4) là do tôi dịch từ chữ Hán.
Trong phần sám nguyện, các mục “Bát-nhã tâm Kinh” (mục 1), “Năm điều quán tưởng” (mục 3), “Mười nguyện Phổ Hiền” (mục 5A), “Sám Quy mạng” (mục 5B), “Hồi hướng công đức (mục 6)” là do tôi phiên dịch từ chữ Hán; các mục “Sám Quy y (5C), Lời nguyện cuối (mục 7), đảnh lễ ba Ngôi báu (mục 8)” là do tôi soạn và mục “Sám hồng trần (5G)” do tôi và Phan Khắc Nhượng soạn. Các mục còn lại trong phần sám nguyện là do người khác soạn, được ghi chú ở phần “Xuất xứ các bài Kinh và sám nguyện” ở cuối sách này.
Trong Kinh Phật cho người tại gia, chỉ có Kinh tiểu sử đức Phật là bài kinh hợp tuyển được biên tập theo dạng tuyển dịch 25 đoạn kinh có xuất xứ từ nhiều bài kinh khác nhau trong kinh tạng Pali và A-hàm, gộp lại thành, nhằm giúp cho người đọc tụng ôn lại cuộc đời của đức Phật, trước khi đi tìm hiểu triết lý của các bài kinh do đức Phật tuyên thuyết. Kinh hợp tuyển này có cùng cấu trúc tuyển dịch như Kinh bát đại nhân giác (do ngài An Thế Cao dịch hợp tuyển), Kinh tứ thập nhị chương (do hai ngài Ca-diếp-ma-đằng và Trúc-pháp-lan dịch hợp tuyển), Kinh Pháp cú, Trưởng lão Tăng kệ và Trưởng lão Ni kệ (không rõ người hợp tuyển) v.v…
Vì các bài kinh trong Kinh Phật cho người tại gia có xuất xứ tự tạng Pali và kinh điển Đại Thừa bằng chữ Hán, có khi tôi chọn dịch từ bản chữ Hán (đối với kinh gốc chữ Hán), và có khi dịch từ bản tiếng Anh (đối với kinh gốc tiếng Pali) của hội Thánh điển Pali (The Pali Text Society). Khi phiên dịch, tôi đối chiếu thêm các bản dịch tiếng Anh khác và các bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu, nhằm giữ sự trung thành về nội dung và tư tưởng của các bài kinh so với bản gốc.
Để giúp cho người đọc đối chiếu với các bản kinh gốc, tôi đã làm một “Phụ lục xuất xứ các bài kinh” ở cuối quyển (trang 885-892). Người đọc có thể tham chiếu tựa đề kinh gốc và tựa đề được biên tập trong tác phẩm này để thấy sự khác biệt cần thiết.
2. Mặc định dịch thuật
Trong lịch sử phiên dịch kinh điển của Trung Quốc, có 2 trường phái dịch thuật chính: trường phái dịch thuật của ngài Huyền Trang (玄奘, 602-664, gọi tắt là trường phái Huyền Trang) và trường phái dịch thuật của ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva, 344-413, gọi tắt là trường phái Cưu-ma-la-thập). Nếu trường phái Huyền Trang chú trọng đến việc phiên dịch trung thành với nguyên bản nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu học thuật thì trường phái Cưu-ma-la-thập có khuynh hướng tỉnh lược những đoạn và câu trùng lặp trong cùng một bài kinh, thường được chọn và sử dụng trong nghi thức tụng niệm tại các nước theo Phật giáo Đại thừa chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Văn phong trùng lặp xuất hiện trong các bài kinh Pali là do vì thời đó chưa có các ấn bản, người tụng phải thuộc lòng. Trên thực tế, sự trùng lặp các câu kinh và đoạn kinh giúp cho người tụng dễ thuộc lòng toàn bài kinh. Trong thời hiện đại, sự trùng lặp các câu kinh và đoạn kinh là không cần thiết, vì dễ dẫn đến cảm giác nhàm chán. Do nhàm chán, nhiều Phật tử tại gia đánh mất cơ hội đọc tụng Kinh điển tiếng Việt vốn được phiên dịch từ kinh Pali.
Trường phái Huyền Trang thích hợp cho việc nghiên cứu kinh điển dưới góc độ học thuật, đang khi trường phái Cưu-ma-la-thập thích hợp cho việc đọc tụng và thọ trì trong các chùa dưới hình thức Nghi thức tụng niệm hay kinh Nhật tụng. Bộ Kinh Phật cho người tại gia đi theo trường phái Cưu-ma-la-thập, tỉnh lược các đoạn trùng lặp, dùng cấu trúc “tứ tự” dễ gieo vần điệu ở cuối từ, làm văn mạch được trôi chảy, giúp người hành trì đọc suông sẽ. Đây vốn là yếu tố rất cần thiết trong các nghi thức đọc tụng.
Để Việt hóa các bài kinh, người soạn dịch cố gắng chuyển dịch các thuật ngữ Phật học thâm áo bằng chữ Hán ra ngôn ngữ tiếng Việt, vừa súc tích, vừa dễ hiểu. Trong trường hợp không có tiếng Việt tương đương, bản dịch tiếng Việt có khuynh hướng sử dụng các thuật ngữ Hán Việt đã trở nên thông dụng và phổ biến trong nền văn học Việt Nam để thay thế cho các thuật ngữ Hán Việt cổ, vốn xa lạ với người Việt Nam hiện đại.
Ví dụ: “sắc, thọ, tưởng, hành, thức” được dịch bằng các thuật ngữ Hán Việt tương đương là “thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư, nhận thức” v.v… Bằng cách này, người đọc tụng sẽ không phải mất thời giờ tra khảo các bộ từ điển chuyên ngành Phật học vẫn có thể hiểu khái quát nội dung và chủ đề chính của từng bài kinh.
3. Những cách đặt tựa Kinh
Theo đại sư Trí Khải (智顗, 538 - 597),[6] tông Thiên Thai, có 7 cách đặt tựa đề kinh trong kinh điển Hán tạng. Trong kinh tạng Pali, tựa đề kinh đặt theo địa danh là khá phổ biến. Tổng hợp các cách đặt tựa đề kinh trong Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền, tôi giới thiệu 8 cách đặt đề Kinh phổ biến như sau:
(i) Tựa kinh đặt theo tên người (đơn nhân lập đề), tức lấy nhân vật chính yếu trong bài kinh đó làm tựa đề bài kinh;
(ii) Tựa kinh đặt theo địa danh (địa danh lập đề), tức lấy địa điểm thuyết giảng bài kinh làm chủ đề kinh;
(iii) Tựa kinh đặt theo chủ đề hoặc theo thuật ngữ Phật học (đơn Pháp lập đề), tức lấy nội dung Phật pháp chính (có thể là một học thuyết, thuật ngữ hay khái niệm Phật học) làm tựa đề kinh;
(iv) Tựa kinh đặt theo dụ ngôn hay ẩn dụ (đơn dụ lập đề), tức lấy một ẩn dụ chính hoặc duy nhất trong bài kinh đó mô tả gián tiếp chủ đề kinh;
(v) Tựa kinh đặt theo tên người và thuật ngữ (nhân pháp lập đề), tức trong tựa đề kinh này, tên của nhân vật đóng vai trò đương cơ pháp hội và nội dung chính của bài kinh đó được giới thiệu với tầm quan trọng ngang nhau;
(vi) Tựa kinh đặt theo tên người và ẩn dụ (nhân dụ lập đề), tức trong tựa đề kinh có đương cơ pháp hội và một ẩn dụ quan trọng nhất, ở đây ẩn dụ được thay thế cho nội dung Phật pháp;
(vii) Tựa kinh đặt theo chủ đề và ẩn dụ (pháp dụ lập đề) tức trong bài kinh loại này, nội dung Phật pháp chính được làm rõ bằng một ẩn dụ, nhằm giúp người đọc dễ hiểu triết lý cao siêu;
(viii) Tựa kinh đặt theo tên người, chủ đề và ẩn dụ (cụ túc nhất), đây là tựa đề Kinh dài và hiếm gặp, thỉnh thoảng thấy trong một số kinh Đại Thừa, chẳng hạn “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”.
Trong 8 cách đặt tựa đề kinh nêu trên, cách 1, 3, 4, 5, 6, 7 là cộng thông giữa 2 trường phái Nam truyền và Bắc truyền, đang khi cách 2 thường thấy trong kinh tạng Pali và cách 8 thường thấy trong kinh tạng Bắc truyền.
Kinh Phật cho người tại gia dựa vào 8 cách đặt tựa đề kinh nêu trên, điều chỉnh các tựa đề gốc thành các tựa Kinh mới, để nội dung của các bài kinh không còn là những ẩn số. Cách đặt tựa đề kinh theo nhân danh và địa danh không thể hiện rõ nội dung của bài Kinh, đã được đổi lại trong bộ Kinh này thành các tựa đề Kinh đặt theo nội dung kinh. Một số tựa đề được biên tập lại nhằm làm nổi bật chủ đề chính của kinh, theo đó, người đọc tụng và thọ trì sẽ được dẫn dắt theo văn mạch và chủ đề kinh.[7]
4. Phân đoạn kinh và đặt tiêu đề của từng phân đoạn
Mô phỏng theo cách thức phân đoạn của “Năng đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh” (Sanskrit:Vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra, Hán: 金剛般若波羅密多經) thường gọi tắt là Kinh Kim Cương[8], người soạn dịch đã phân đoạn hầu hết các bài kinh trong bộ Kinh này, ngoại trừ 2 bài kinh chỉ có 3-4 trang nên không cần thiết phải phân đoạn.
Trước mỗi phân đoạn đều có các tiêu đề phụ, nhằm tóm tắt chủ đề chính của các phân đoạn. Mục đích của việc phân đoạn và đặt tiêu đề phụ cho các phân đoạn là nhằm giúp cho người đọc tụng dễ dàng nắm bắt và tập trung vào các chủ đề phụ, nhờ đó dễ hiểu được chủ đề chính của toàn bài kinh. Cách phân đoạn với chủ đề phụ còn giúp cho người đọc dễ dàng trích dẫn các ý tưởng quan trọng trong kinh, hoặc chọn lựa trong các phân đoạn những câu kinh chính làm các danh ngôn để chiêm nghiệm, tiêu hóa và thực hành.
5. Nghi thức dẫn nhập và sám nguyện
Nội dung chính của các Nghi thức đọc tụng nói chung, Kinh Phật cho người tại gia nói riêng là các bài kinh của đức Phật hoặc được biên tập từ lời Phật dạy. Vì là nghi thức phục vụ cho việc đọc tụng, các nhà biên soạn nghi thức trong trường phái Nam truyền và Bắc truyền đều thêm phần dẫn nhập và phần kết thúc. Dựa vào thông lệ này, người soạn dịch đã soạn dịch phần dẫn nhập và phần sám nguyện theo phong cách mà các nghi thức Bắc truyền thường sử dụng.
Trong phần Nghi thức dẫn nhập, sau phần nguyện hương, đảnh lễ Tam Bảo, phát nguyện thọ trì là kệ khai kinh. Ở đây, thần chú Đại Bi và các thần chú ngắn khác đã được tỉnh lược vì không cần thiết. Trong nghi thức đời Thanh do Ngọc Lâm quốc sư soạn, các thần chú này được sử dụng nhằm giúp người đọc nhiếp tâm và an tĩnh tâm do tập trung vào các thần chú (vốn không có nghĩa và dễ đọc nhầm). Nhờ tâm an tĩnh, người đọc có thể đào sâu và hiểu rộng nội dung của bài kinh chính ngay sau đó.
Rất tiếc ngày nay, nhiều chùa theo Tịnh độ tông và các hành giả Mật tông đã bỏ hẳn các bài kinh chính, chỉ đọc chú Đại Bi và các thần chú khác, do vậy, khi tâm đã được an tĩnh, lẽ ra tiếp tục đọc kinh để mở trí tuệ thì cơ hội “khai tuệ” cho chính mình đã bị khép lại. Không sử dụng các thần chú trong bộ Kinh này là nhằm nhấn mạnh vai trò khai tâm mở trí cho người đọc tụng, đồng thời tránh tình trạng “thần chú hóa” thay thế kinh điển, vốn có thể dẫn đến các lý giải và ngộ nhận về sự thiêng liêng, cầu gì được đó. Ngộ nhận này đã làm cho nhiều Phật tử bỏ đọc kinh hoặc đọc kinh vì mục đích cầu phúc, vốn dễ rơi vào mê tín, trái lại với lời Phật dạy.
Nghi thức sám nguyện trong bộ Kinh này bắt đầu bằng Bát-nhã tâm Kinh như thông lệ, theo sau là niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, lời nguyện cuối và đảnh lễ ba Ngôi báu. Các phần được thêm vào bao gồm: (i) Năm điều quán tưởng, (ii) quán chiếu thực tại và (iii) các sám nguyện. Các phần bổ túc này giúp cho người đọc tụng hiểu rõ quy luật “sanh, già, bệnh, chết”, có trách nhiệm sống chánh niệm trong hiện tại, mở tâm bồ đề, tu tập chuyển hóa, phát nguyện độ sinh và nhập thế phụng sự nhân sinh.
Trong trường hợp có quá ít thời gian do bận rộn hoặc trong gia đình ít thành viên, phải tự mình làm mọi việc, hành giả có thể tỉnh lược Nghi thức dẫn nhập và Nghi thức sám nguyện. Chỉ cần giữ mục “đảnh lễ Tam Bảo” (trang 4), (các) bài Kinh chính (từ trang 9 đến trang 870) và mục “đảnh lễ ba Ngôi báu” (trang 882) là đủ cho một thời tụng kinh. Với cách linh động này, mục tiêu “khai tuệ” do đọc kinh và tâm sùng kính Tam Bảo vẫn được thể hiện đầy đủ, người thọ trì có thể tiết kiệm được 10-15 phút.
III. MỤC ĐÍCH SOẠN DỊCH
Đã từ lâu, hàng thế kỷ qua, Phật giáo Việt Nam bị ảnh hưởng quá nhiều vào Phật giáo Trung Quốc, đến độ, phần lớn Tăng Ni và Phật tử Việt Nam suy nghĩ và chấp nhận rằng, các nội dung văn hóa và học thuật của Phật giáo Trung Quốc cũng chính là nội dung và văn hóa học thuật của Phật giáo Việt Nam. Thói quen nhận thức này đã làm cho người Việt Nam mất dần tính tự chủ và sáng tạo trong phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, hành trì và ứng dụng Phật giáo trong bối cảnh văn hóa và xã hội Việt Nam. Trên tinh thần này, Kinh Phật cho người tại gia được soạn dịch với các mục đích sau đây:
1. Mở con mắt tuệ
Truyền thống đọc tụng kinh điển của Trung Quốc và Việt Nam xưa nay có khuynh hướng nhấn mạnh “tín ngưỡng hóa” kinh Phật, cầu sự mầu nhiệm, thiêng liêng và phước báu.
Không ai có thể phủ định mục đích chính của việc đọc kinh là để hiểu rộng và sâu nội dung minh triết của bài kinh để ứng dụng trong cuộc sống. Tiếc là, không phải Tăng Ni và Phật tử nào cũng tuân thủ theo nguyên tắc quan trọng này. Để mở con mắt tuệ, người tại gia cần đọc tụng các bài kinh thuần Việt, đọc có tư duy và nghiền ngẫm, đọc với mục đích hiểu và tiêu hóa kinh Phật trong đời sống thực tiễn.
Lợi thế của kinh Phật là có đề cập bao quát đến các vấn đề cá nhân, gia đình và xã hội, rất khoa học và thực tiễn. Nắm vững và ứng dụng lời Phật dạy về đạo đức, gia đình và xã hội cũng như các phương pháp giải quyết khổ đau, người hành trì tăng trưởng trí tuệ theo năm tháng, nhờ đó, thành công hơn trong lập nghiệp, giải quyết vấn nạn, khó khăn và tu học Phật có hiệu quả.
2. Bổ sung yếu tố “trí tuệ” vào các Nghi thức đã có
Hiện nay, các nghi thức tụng niệm dành cho Phật tử tại gia phần lớn thiên về tín ngưỡng. Các bài kinh dành cho người tại gia được đức Phật thuyết giảng ít được đưa vào nghi thức tụng niệm tại các chùa. Đó là thiếu sót lớn. Quyển Kinh Phật cho người tại gia góp phần khắc phục thiếu sót này.
Các Nghi thức đọc tụng tại các chùa theo Tịnh Độ tông ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn và Triều Tiên chỉ nhấn mạnh đến bốn đối tượng: người già và người bệnh (Nghi thức cầu an), người chết (Nghi thức cầu siêu) và người có tội (Nghi thức sám hối)[9]. Các thành phần xã hội còn lại gồm giới trí thức, giới chính trị, giới kinh doanh và giới trẻ hầu như các Nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông hầu như không quan tâm đến.
Đạo Phật, theo từ nguyên, có nghĩa đen là “con đường tỉnh thức”. Phương pháp giải quyết khổ đau của đức Phật dựa vào việc phân tích nhân quả bất hạnh để tìm ra con đường hạnh phúc. Con đường hạnh phúc theo Phật giáo chính là Bát chánh đạo, gồm 3 phương diện: (a) Đạo đức, bao gồm: lời nói đạo đức (chánh ngữ), hành vi đạo đức (chánh nghiệp), nghề nghiệp đạo đức (chánh mạng), nỗ lực đạo đức (chánh tinh tấn); (b) thiền định, bao gồm: làm chủ tâm và sự vận động của thân ở mọi nơi mọi thời điểm (chánh niệm) và thực tập thiền, kết thúc khổ đau, buông bỏ chấp trước, xả niệm thanh tịnh (chánh định); và (c) trí tuệ, bao gồm: thế giới quan và nhân sinh quan dựa vào duyên khởi, vô thường, vô ngã (chánh kiến) và tư duy tích cực, tư duy thoát khỏi tham, sân, si (chánh tư duy).
Trong 10 pháp môn của Phật giáo Trung Quốc, 14 pháp môn của Phật giáo Nhật Bản và các pháp môn tại Việt Nam thì Tịnh Độ tông, Thiền tông và Mật tông là phổ biến nhất. Tịnh Độ tông chiếm đại đa số tín đồ Phật giáo tại các nước Bắc truyền, trong đó có Việt Nam. Nếu Thiền tông Trung Quốc phù hợp giới trí thức thì Tịnh độ tông và Mật tông thiên về giới bình dân, chú trọng các hoạt động tín ngưỡng và tha lực vốn không có trong đạo Phật gốc.
Do vậy, sự ra đời của Kinh Phật cho người tại gia không chỉ bổ sung yếu tố “trí tuệ” vào nghi thức tụng niệm, mà còn góp phần giúp hành giả Việt Nam không bị lệ thuộc vào các pháp môn đặt nặng về tín ngưỡng như của Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Tây Tạng.
3. Đề cao vai trò của Phật giáo Việt Nam
Từ nhiều thế kỷ qua, các Nghi thức tụng niệm, phong cách tượng Phật, phương pháp tu trì, cách thức làm đạo của Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ Phật giáo Trung Quốc. Từ năm 2010 trở lại đây, một số Tăng Ni và Phật tử Việt Nam có khuynh hướng thiên về Mật tông của Phật giáo Tây Tạng. Đây là hai hình thái đạo Phật nặng về tín ngưỡng và tha lực, vốn có khoảng cách lớn so với Phật giáo gốc.
Do vì bị lệ thuộc vào văn hóa Phật giáo Trung Quốc nói chung và văn hóa Phật giáo nước khác nói riêng, Tăng Ni Việt Nam ít có kiến thức về những đóng góp to lớn của các tổ sư và thiền sư… của Phật giáo Việt Nam, đang khi phần lớn đều nắm bắt các tông chỉ của các tổ sư Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng. Điều này một mặt tạo ra sự mặc cảm tự ti dân tộc, mặc khác, nếu không thay đổi, sẽ dẫn đến tình trạng mất gốc rễ truyền thống văn hóa Phật giáo Việt Nam, vốn có trước Phật giáo Trung Quốc.
Tình trạng mất gốc rễ này diễn ra đến độ nhiều Tăng Ni và Phật tử Việt Nam ngộ nhận rằng “cái gì Phật giáo Trung Quốc chủ trương cái đó cũng chính là của Phật giáo Việt Nam.” Nếu tiếp tục bị “lệ thuộc” hoặc “nhập cảng nguyên xi” phương pháp Phật học Trung Quốc, văn hóa Trung Quốc và cách làm đạo của Phật giáo Trung Quốc tại Việt Nam, thì Phật giáo Việt Nam sẽ tiếp tục bị giới trí thức Việt Nam ngộ nhận rằng đạo Phật là “xuất thế” theo nghĩa Phật giáo trốn chạy và chối bỏ cuộc sống hiện thực, đang khi trong bản chất, Phật là nhập thế để giúp nhân loại vượt qua khổ đau.
Giới trí thức Việt Nam trong lịch sử đã từng ngộ nhận rằng chỉ có đạo Nho mới dạy về gia đình, xã hội và chính trị đang khi cho rằng đạo Phật là yếm thế. Hơn 60 bài kinh trong Kinh Phật cho người tại gia này cho chúng ta thấy những vấn đề mà loài người quan tâm bao gồm: đạo đức, công bằng xã hội, bình đẳng giới tính, dân chủ nhân quyền, quản trị đất nước, xây dựng hòa bình, phát triển xã hội, bảo vệ môi trường… cho đến các vấn đề tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc vợ chồng, trách nhiệm của cha mẹ - con cái, thầy giáo - học trò, tình thân - làng xóm, chủ - thợ, tu sĩ - tín đồ… đều được đức Phật hướng dẫn cặn kẽ, góp phần xây dựng hạnh phúc cho con người.
Do vì bị lệ thuộc vào các pháp môn hành trì và Nghi thức tụng niệm của Phật giáo Trung Quốc, nên Tăng Ni và Phật tử Việt Nam suốt đời tu chỉ đọc vỏn vẹn 1-3 bài kinh “pháp môn”. Điều này dẫn đến hệ lụy tất yếu là nếu không được đào tạo tại các trường Phật học, Tăng Ni sẽ không nắm vững triết học Phật giáo, đang khi đại đa số Phật tử rơi vào tình trạng “mù chữ Phật pháp” tập thể. Hệ lụy này dẫn đến một hiện thực là đại đa số người đi chùa ở Việt Nam đều thuộc giới bình dân và người già, trong số đó phần lớn là phụ nữ.
Thoát khỏi sự nô dịch vào các pháp môn, nghi thức tụng niệm và cách thức làm đạo của Phật giáo Trung Quốc, quyển Kinh Phật cho người tại gia giúp người Việt Nam tiếp cận và thực tập lời Phật dạy bằng tiếng Việt, mở mang trí tuệ, vượt qua mê tín dị đoan, nhờ đó, thực tập có kết quả. Đây là một trong những nỗ lực xây dựng hình ảnh đạo Phật Việt Nam với những nét đặc thù, thậm chí, có nhiều ưu điểm so với Phật giáo Trung Quốc.
***
Với những điều nêu trên, từ tận đáy lòng, người soạn dịch tha thiết kêu gọi chư tôn đức Tăng Ni và các Phật tử hãy góp một bàn tay ấn tống, truyền bá, sử dụng và hành trì Kinh Phật cho người tại gia này tại các tự viện và tư gia của mình. Để sử dụng bộ Kinh này, chư Tôn đức và quý Phật tử vui lòng liên lạc Ban ấn tống Đạo Phật Ngày Nay[10] để nhận kinh ấn tống.
Nhân dịp tái bản lần thứ 3, tôi chân thành cảm ơn các Phật tử đã phát tâm ấn tống bộ Kinh này, nhờ đó, Phật tử Việt Nam đọc được kinh Phật bằng tiếng Việt một cách có hệ thống và toàn diện, mở mang trí tuệ và đạt nhiều lợi ích lớn.
Kết thúc Hậu An Cư năm 2014
Sa-môn Thích Nhật Từ
[1] Thích Nhật Từ (soạn dịch), Kinh Phật cho người tại gia. Sài Gòn: NXB Phương Đông, 2013, tr.900
[2] Nếu tính các bài Kinh dạng hợp tuyển như Kinh tiểu sử đức Phật (tr. 11-34) và Kinh mười hai nhân duyên (tr. 443-58) thì số lượng các bài Kinh được sử dụng trong Kinh Phật cho người tại gia vượt trên 70 bài Kinh khác nhau.
[3] Trang nhà www.daophatngaynay.com
[4] Thích Nhật Từ (soạn dịch), Nghi thức tụng niệm. Sài Gòn: NXB Phương Đông, 2011, tr. xx + 390.
[5] Tác phẩm “Kinh Phật cho người xuất gia” đang được soạn dịch, dự kiến hoàn tất vào cuối năm 2015.
[6] Tên thật của ngài là Trí Nghĩ(Zhiyi), thường được phiên âm nhầm thành Chih-k'ai (Trí Khải).
[7] Về cách biên tập tựa Kinh trong quyển Kinh Phật cho người tại gia, hãy đọc bài nghiên cứu “Bàn về việc đổi tựa đề Kinh và biên tập trong bản dịch” của nhà nghiên cứu Định Tuệ, đăng trên tạp chí Đạo Phật Ngày Nay, số 45, tháng 9-2014, tr. 52-59, đồng thời đăng online trên trang nhà Đạo Phật Ngày Nay vào ngày 19-8-2014, để hiểu về cách đánh giá của nhà nghiên cứu này về việc biên tập tựa Kinh trong bộ Kinh do tôi soạn dịch. Dĩ nhiên, đây chỉ là một cách tiếp cận việc đặt tựa đề Kinh. Có thể có các cách tiếp cận khác.
[8] Bản sớ giải chữ Hán thường phân 32 phân đoạn, trong khi bản dịch của HT. Thích Trí Quang phân làm 52 phân đoạn với các chủ đề khác nhau. Xem, Thích Trí Quang (dịch), Kinh Kim Cương, xuất bản năm 1987.
[9] Bao gồm Hồng danh sám pháp, Lương Hoàng sám pháp, Từ bi thủy sám, Sám pháp Mục-liên, Ngũ bách danh Kinh, Tam thiên Phật kinh và Vạn Phật kinh.
[10] Chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh, P3, Q10, TP.HCM.