(Bao gồm những bài tham luận, bài viết đã được đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.)
Nhằm giúp quý độc giả có một khái niệm về những người đồng thời với đức Thế Tôn đánh giá Ngài như thế nào, người viết xin trình bày một số lời phát biểu tôn vinh đức Phật mà các kinh điển còn lưu truyền cho đến ngày nay.
1. CHƯ THIÊN CA NGỢI
Bấy giờ Thiên chủ Đế thích (Sakka) ở Tam thập tam thiên hoan hỉ khi thấy 8 pháp như thật của Thế Tôn liền nói với chư Thiên đang hiện diện như sau :
1. Nầy chư Thiện hữu, các vị nghĩ thế nào?
Phải chăng đức Như Lai phát tâm tu hành vì hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương đời, vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và nhân loại? Một vị đạo sư đầy đủ các đức tính như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ cũng như trong hiện tại, ngoại trừ Thế Tôn.
2. Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng chánh pháp, một thứ chánh pháp cho đời hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thượng, chỉ có người trí mới hiểu thấu.
3. Đức Thế Tôn đã khéo giải thích các pháp thiện, bất thiện, có tội, không có tội, cần phải tuân theo, cần phải từ bỏ, hạ liệt và cao thượng.
4. Đức Thế Tôn đã khéo giải thích con đường dẫn đến Niết-bàn cho các đệ tử.
5. Đức Thế Tôn đã khéo đào tạo được chúng thiện hữu, hiếu học, đang đi trên lộ trình, các lậu hoặc đã đoạn tận, đạt được thánh đạo.
6. Đức Thế Tôn thọ nhận lợi dưỡng cúng dường một cách tri túc, danh tiếng Thế Tôn được vang xa.
7. Đức Thế Tôn nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy.
8. Đức Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi tư duy đều chân chính, hướng đến phạm hạnh.
Nầy chư hiền, một vị đạo sư đầy đủ 8 đức tính như vậy, thật khó tìm được trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ đức Thế Tôn.(1)
Thiên Tử Mànava Gàmiya cảm hứng đọc lên bài kệ tán thán Phật :
“Trong tất cả ngọn núi,
Ở tại thành Vương xá
Ngọn núi Vipula
Được xem là tối thắng.
… Trong tất cả tinh tú
Mặt trăng là tối thắng.
Giữa Thiên giới, địa giới
Phật là bậc tối thắng.”(2)
2. VUA CHÚA CA NGỢI
Vua A-xà-thế (Ajatasattu) sau khi gây ra tội lỗi tày đình, sát hại phụ vương để soán ngôi, lòng vua đang bị những mặc cảm tội lỗi dày vò. Vua đã đích thân đi hỏi các vị giáo trưởng ngoại đạo về lẽ nhân quả tội phước; nhưng không một ai trả lời cho vua thoả mãn. Cuối cùng, vua đã đi đến yết kiến Thế Tôn, nêu lên những điều mình đang thắc mắc, được Thế Tôn phân tích, giảng giải, khiến vua rất hài lòng, phấn khởi, bèn thốt lời ca ngợi:
“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì đã bị đổ ngã, phơi bày những gì bị che khuất, chỉ đường cho những kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy các sự vật. Cũng vậy, chánh pháp đã được đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Chúng Tỷ kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử. Từ nay cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng.”(3)
Đó là lời ca ngợi thống thiết của vua Ajatasattu, và sau đây là cử chỉ thành kính cũng như lòng ngưỡng mộ khác thường của vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) đối với đức Phật:
- Sau khi vua Pasenadi nước Kosala bước vào căn nhà, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, lấy tay xoa chung quanh chân Thế Tôn, rồi tự xưng tên: “Bạch Thế Tôn! Con là vua Pasenadi nước Kosala.”
Thế Tôn hỏi: “Do thấy những gì mà đại vương lại hạ mình tột bực đối với thân này, và biểu lộ tình thân ái quá đáng như vậy?”
- Bạch Thế Tôn! Con thấy nhiều vị Sa-môn, Bà-la-môn hành trì phạm hạnh có giới hạn trong một thời gian, rồi trở về thế tục, thụ hưởng 5 thứ dục lạc; trái lại, các Tỷ kheo đệ tử của Thế Tôn thực hành phạm hạnh viên mãn cho đến trọn đời, cho đến hơi thở cuối cùng. Do đó, con có ấn tượng tốt đẹp đối với Thế Tôn: “Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập hành trì.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Ở ngoài đời con thấy vua chúa cãi lộn với vua chúa, Sát-đế-lợi cãi lộn với Sát-đế-lợi, Bà-la-môn cãi lộn với Bà-la- môn, gia chủ cãi lộn với gia chủ, cha mẹ cãi lộn với con cái, anh em ruột thịt, bạn bè cãi lộn với nhau… Còn ở đây, con thấy các Tỷ-kheo sống với nhau hoà thuận, thân mật, không tranh cãi, như nước hòa với sữa, nhìn nhau bằng cặp mắt ái kính. Bạch Thế Tôn! Ngoài đây ra,con không thấy một nơi nào khác có đời sống phạm hạnh thanh tịnh viên mãn như vậy. Do đó, con kính ngưỡng Thế Tôn.
… Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con là vua Sát-đế-lợi, đã làm lễ quán đỉnh, có quyền sinh sát trong tay, thế mà khi con ngồi xử kiện, đôi lúc có người dám ngắt lời con, mặc dù con đã ra lệnh không được ngắt lời. Còn nơi đây, con thấy trong khi Thế Tôn thuyết giảng cho hàng trăm đồ chúng mà không một ai gây ra tiếng động. Có lần, một đệ tử ho lên một tiếng, thì liền có người bạn đồng phạm hạnh khẽ đập vào đầu gối và nói: “Tôn giả hãy im lặng, chớ có làm ồn. Bậc Đạo sư của chúng ta đang thuyết pháp.” Do vậy, con khởi lên ý nghĩ: “Thật vi diệu thay, thật hy hữu thay, chúng Thích tử này thật khéo huấn luyện, không cần phải sử dụng đến gậy và kiếm.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con thấy một số Sát-đế- lợi bác học, có tài hùng biện, muốn đến chất vấn Thế Tôn, chuẩn bị trước những câu hỏi và những câu đả kích, nhưng khi đến trước Thế Tôn, tất cả những vị bác học ấy đều im lặng; và sau khi nghe pháp thoại của Thế Tôn, họ đã sinh tâm hoan hỉ, xin làm đệ tử Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con có hai quan giữ ngựa, ăn cơm của con, đi xe của con, cuộc sống do con chu cấp, và chính con đem lại danh vọng cho chúng. Thế mà chúng không hạ mình đối với con như đã từng hạ mình đối với Thế Tôn. Một hôm nọ, trong lúc hành quân, con và hai người ấy tạm dừng chân tại một căn nhà chật hẹp để nghỉ qua đêm. Hai người ấy luận bàn sôi nổi về chánh pháp đến quá nửa đêm, rồi cả hai nằm quay đầu về hướng mà chúng biết là Thế Tôn đang an trú và trở chân về phía con nằm. Khi ấy con nghĩ: “Chắc chắn những vị này đã nhận thức được những sự thù thắng trong giáo pháp của Thế Tôn, nên mới tôn kính Thế Tôn tột bực như vậy.”
Bạch Thế Tôn! Đó là những lý do khiến con kính phục và tỏ lòng ưu ái đối với Thế Tôn.(4)
3. BÀ LA MÔN CA NGỢI
Bà-la-môn Sonadanda thuộc dòng dõi quí tộc, có huyết thống thanh tịnh từ 7 đời, nổi tiếng giàu có, đẹp đẽ và thông thái, được vua chúa và dân chúng ngưỡng mộ; vì thế, các đệ tử của ông phát biểu rằng: “Thật xứng đáng cho đức Gotama (đức Phật) đến yết kiến tôn giả Sonadanda.Thật không xứng đáng cho tôn giả Sonadanda đến yết kiến đức Gotama.” Nhưng Sonadanda thì suy nghĩ ngược lại: “Thật xứng đáng cho Sonadanda này đến yết kiến Thế Tôn. Thật không xứng đáng cho Thế Tôn đến yết kiến Sonadanda.” Rồi ông giải thích vì các lý do:
1. Sa-môn Gotama xuất gia, từ bỏ đại gia đình quyến thuộc.
2. Sa-môn Gotama từ bỏ rất nhiều vàng bạc, châu báu đang chôn dưới đất lẫn các loại trên mặt đất.
3. Dù song thân không bằng lòng, khóc than nước mắt ràn rụa, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa xuất gia.
4. Sa-môn rất đẹp trai, khả ái, trang nhã, tuấn tú, cao thượng, làm đẹp lòng người.
5. … Là người giữ gìn giới hạnh của bậc Thánh, có đầy đủ thiện đức.
6. Là người nói lời chân thật, thuần thiện, giọng nói tao nhã, nghĩa lý minh bạch.
7. Là bậc tôn sư của các hàng tôn sư.
8. Là vị đã diệt tận tham dục và mọi xao động của nội tâm.
9. Sa-môn Gotama chủ trương về hành động, về nghiệp.
10. Là bậc xuất thân từ chủng tộc cao quí: Sát- đế-lợi.
11. Có rất đông dân chúng vượt biển, băng ngàn đến hỏi đạo Sa-môn Gotama.
12. Có hàng ngàn Thiên nhân đến quy y Sa-môn Gotama.
13. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được lan truyền: “Sa-môn Gotama là bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, trí đức đầy đủ, Thiện Thệ, hiểu biết thế gian, bậc Vô Thượng, bậc Trượng phu điều ngự những người đáng được điều ngự, bậc thầy loài trời và loài người, Phật, Thế Tôn”.
14. Là vị có đủ 32 tướng tốt của bậc đại nhân.
15. Sa-môn Gotama nói lời chào đón thân thiện, tao nhã, trân trọng và chân thực.
16. Được 4 chúng kính trọng, tôn sùng, quy ngưỡng và phục tùng.
17. Tại địa phương nào Sa-môn Gotama cư trú, thì nơi đó các loài phi nhân không làm hại con người.
18. Sa-môn Gotama là vị Giáo chủ, được tôn xưng là tối thượng trong các bậc Giáo tổ.
19. Danh tiếng của một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa trên những bằng chứng không đâu, còn danh tiếng của Sa-môn Gotama thì dựa trên trí đức vô thượng của Ngài.
20. Vua Seniyo Bimbisàra nước Magadha cùng với các vương tử, cung phi, thị tùng, đại thần rất kính trọng, tôn sùng, ngưỡng mộ và quy y Sa-môn Gotama.
21. Vua Pasenadi nước Kosala cùng với các vương tử, cung phi, thị tùng, đại thần rất kính trọng, tôn sùng, ngưỡng mộ và quy y Sa-môn Gotama.
22. Bà-la-môn Pokkharasàdi cùng với vợ con,thị giả, tuỳ tùng đều kính trọng tôn sùng, ngưỡng mộ và quy y Sa-môn Gotama.
Này các hiền giả, đó là những ưu điểm mà ta được biết về tôn giả Gotama. Nhưng tôn giả không phải chỉ có chừng đó ưu điểm mà còn có vô số ưu điểm khác.
Thế rồi, Bà-la-môn Sonadanda cùng đồ chúng đi đến tham kiến Thế Tôn, được Thế Tôn thuyết pháp khích lệ. Ông vô cùng hoan hỉ, thốt lời tán thán Phật, rồi xin làm đệ tử Phật và nguyện trung thành cho đến lúc mệnh chung.(5)
Tương tự như Bà-la-môn Sonadanda trên đây là Bà-la-môn Kùtadanta, ông vốn là một vị Giáo trưởng nổi tiếng đương thời, lại được vua Bình Sa trọng vọng ban thưởng một phong ấp. Thế nên, khi ông muốn đến tham vấn đức Phật, đồ chúng Bà-la-môn tìm cách ngăn cản, và ông đã giải thích:
“Nầy các hiền giả, hãy nghe ta giải thích vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama, trái lại, thật không xứng đáng cho Sa- môn Gotama đến yết kiến chúng ta. Vì Sa-môn Gotama thiện sinh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến 7 đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào về huyết thống thọ sinh. Do vậy, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama.” Rồi ông liệt kê 23 ưu điểm khác của đức Phật như Sonadanda đã ca ngợi. Cuối cùng, ông đã đến yết kiến Phật, được Phật cảm hóa và ông đã xin làm đệ tử đức Phật.(6)
Tiếp đến là lòng ngưỡng mộ của Bà-la-môn Pingiyàni đối với đức Phật. Một hôm, sau khi ông viếng thăm đức Phật trở về, một người bạn là Bà-la-môn Karanapali hỏi ông nghĩ thế nào về trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama. Ông đáp: “Thưa tôn giả, tôi là ai mà có thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama? Chỉ có ai ngang trình độ với Ngài mới có thể biết được trí tuệ sáng suốt của Ngài mà thôi.” Người bạn lại hỏi ông đã thấy được những nét đặc thù gì nơi tôn giả Gotama mà tỏ ra tin tưởng tuyệt đối như thế, thì ông trình bày: “Thưa tôn giả, ví như một người đã thoả mãn với vị ngọt tối thượng, sẽ không còn thèm muốn những vị ngọt tầm thường khác. Cũng vậy, khi đã nghe pháp của Sa-môn Gotama, như khế kinh, phúng tụng v.v… thì không còn thích nghe các lý thuyết của các Sa-môn, Bà-la-môn thấp kém khác. Ví như một người bị đói lả và mệt mỏi, tìm được một bánh mật, cứ mỗi miếng vị ấy nếm, vị ấy thưởng thức vị ngọt thuần nhất của bánh. Hoặc một người tìm được một khúc gỗ chiên đàn, thì tại nơi nào người ấy cũng cảm nhận được hương thơm ngạt ngào của gỗ chiên đàn. Ví như một người đang mắc bệnh trầm trọng, đau khổ, mà được một vị lương y chữa cho lành bệnh. Ví như một hồ sen có nước trong mát, ngọt ngào, bờ hồ được xây đẹp đẽ, rồi một người bị sức nóng thiêu đốt, bị khát nước bức bách, tìm đường đi đến hồ ấy. Thế rồi, người ấy bước xuống hồ, uống nước, tắm táp; do đó, tất cả nỗi khao khát, nóng bức, mệt mỏi đều tan biến. Cũng vậy, thưa tôn giả, khi đã được nghe pháp của tôn giả Gotama, như khế kinh…, thì tất cả những khao khát, nóng bức, mệt mỏi đều hoàn toàn tan biến.”
Sau khi nghe bạn trình bày, Bà-la-môn Karanapali từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y, quỳ gối bên phải trên mặt đất, chắp tay hướng về trú xứ của Thế Tôn thốt lên 3 lần lời cảm hứng sau đây: “Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la- hán, Chánh đẳng giác”(7).
Không phải chỉ có chừng ấy Bà-là-môn tán dương Đức Phật mà còn nhiều vị khác như các Bà-la-môn Pikkharasadi(8), Brahmayu(9), Todeyyaputta(10) ban đầu tỏ ra ngờ vực đức Thế Tôn, nhưng cuối cùng đều được Phật thuyết pháp, cảm hoá và họ đã tự nguyện quy hướng theo Phật.
4. ĐỆ TỬ CA NGỢI
Một thuở nọ, Thế Tôn đang trú tại Nàlandà, đại đức Xá-lợi-phất (Sàriputta) cao hứng đến đảnh lễ chân Thế Tôn, rồi bạch như sau:
“Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng trong quá khứ, trong vị lai cũng như trong hiện tại, không thể có một Sa-môn, Bà-la- môn nào vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện giác ngộ.”
Sau khi được nghe tán thán, đức Phật hỏi Xá-lợi-phất vì sao dám bạo gan tuyên bố như vậy, thì thầy trình bày về những điểm siêu việt của đức Thế Tôn mà thầy đã chứng kiến:
1. Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thuyết pháp cho con, cứ mỗi pháp sau lại càng thâm thuý và cao thượng hơn pháp trước.
2. Thế Tôn thuyết giảng rành mạch về các pháp thiện như Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần.…
3. Thế tôn thuyết giảng cặn kẽ về lục nhập, tức sáu căn tiếp xúc với sáu trần.
4. Thế Tôn trình bày về các tha tâm thông: có thể biết được tâm của người khác bằng chính tâm của mình.
5. Thế Tôn phân tích cặn kẽ về 32 vật bất tịnh nơi mỗi thân người.
6. Thế Tôn trình bày về bảy hạng người đang đi trên đạo lộ hướng đến giải thoát: Câu giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến chí, Tín thắng giải, Tùy Pháp hành, Tuỳ tín hành.
7. Thế Tôn thuyết giảng tường tận về Thất Giác chi.
8. Thế Tôn trình bày sự tiến bộ trên đường tu hành: Hành trì khổ chứng ngộ chậm; hành trì khổ chứng ngộ nhanh; hành trì lạc chứng ngộ chậm; hành trì lạc chứng ngộ nhanh.
9. Thế Tôn thuyết giảng về Chánh ngữ: nói đúng sự thật, đem lại lợi ích cho mình và cho người.
10. Thế Tôn thuyết giảng về giới hạnh của con người: hộ trì các căn, tinh cần tu học.
11. Thế Tôn thiện xảo trong sự thuyết pháp: tuỳ theo căn cơ của từng đối tượng mà dạy cho họ những pháp môn thích hợp.
12. Thế Tôn thuyết giảng về sự giải thoát của các hành giả: Ai tu pháp môn nào sẽ chứng đạt được quả vị nào.
13. Thế Tôn thuyết giảng về Túc mạng trí: Biết đời sống quá khứ của các loài chúng sinh.
14. Thế Tôn thuyết giảng về Thiên nhãn trí: Biết ai gieo nhân nào sẽ gặt kết quả nấy.
15. Thế Tôn thuyết giảng về Thần túc thông: trình bày rõ ràng về các loại thần thông.
16. Thế Tôn tránh xa hai cực đoan: không đam mê các dục lạc và không chấp nhận tu hành khổ hạnh. Vì hai cực đoan ấy không xứng với bậc Thánh, không có lợi ích.
Bạch Thế Tôn! Con thiển nghĩ: “Trong thời quá khứ cũng như trong vị lai có thể có những Sa-môn, Bà-la-môn đạt được giác ngộ bằng Thế Tôn; nhưng trong hiện tại, Thế Tôn là vị độc nhất vô nhị chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Sau khi nghe Xá-lợi-phất trình bày, đức Thế Tôn đã xác nhận những lời trình bày của thầy là đúng, chính xác, không sai lầm.(11)
Không phải chỉ có người đệ tử trí tuệ đệ nhất ấy tán thán Phật mà một vị đại đệ tử khác cũng ca ngợi Ngài. Đó là trường hợp tôn giả A-nậu-lâu- đà. Vì sau khi di chúc với các đệ tử bằng những lời thống thiết nhất, đức Đạo sư hỏi lại ba lần xem ai còn thắc mắc điều gì để Ngài giải đáp trước giờ phút Niết-bàn, thì tôn giả A-nậu-lâu-đà nói một cách quả quyết rằng :
“Bạch Thế Tôn! Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà Thế Tôn đã dạy thì không thể nào làm khác được. Thế Tôn dạy khổ thì là thật khổ, không thể làm cho vui lên được. Tập là nguyên nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa. Diệt là khổ diệt, vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt thì kết quả cũng diệt. Đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch Thế Tôn! Đối với 4 chân lý, các vị Tỷ-kheo đây đã khẳng tín, không còn nghi ngờ gì nữa.”(12)
5. ĐỨC PHẬT TỰ MINH ĐỊNH
Để tránh tình trạng xuyên tạc hoặc ngộ nhận đối với Ngài, đức Phật tự khẳng định: “Này các Tỷ- kheo, một người khi xuất hiện ở đời, đem lại hạnh phúc, an lạc cho số đông, vì lòng thương đời, vì lợi ích, vì an vui cho chư Thiên và nhân loại, đó là Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh đẳng giác. Người ấy là vô song, tuyệt đối, là bậc Tối thượng giữa loài hai chân.”(13)
Một hôm, Bà-la-môn Dona trông thấy bàn chân của Phật có hình bánh xe và nhiều tướng đặc thù khác của bậc đại nhân, bèn hỏi Ngài có phải Thiên nhân, Càn-thát-bà… không, thì Thế Tôn đáp:
“Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Thiên nhân, nhưng là một Thiên nhân mà các lậu hoặc đã được đoạn tận, giống như cây ta-la đã chặt đứt mọi gốc rễ, không thể hiện hữu, không thể nẩy mầm được nữa trong tương lai. Đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, là Dạ-xoa, là người, nhưng là một người đã đoạn tận các lậu hoặc, giống như cây ta-la đã chặt đứt mọi gốc rễ… Nầy Bà-la-môn, ví như bông sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng, sinh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước và đang đứng thẳng không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, nầy Bà-la-môn, sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, nhưng Ta chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Nầy Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy ghi nhớ như vậy.”
Đối với một đất nước có truyền thống tôn giáo lâu đời như Ấn Độ mà đức Đạo Sư lại đơn độc dấn thân tìm chân lý, cuối cùng, đạt được giác ngộ vô thượng, rồi lập ra một tôn giáo mới, làm khuynh đảo các tôn giáo cũ, quét tan mọi tà kiến, thì được chư Thiên, Vua chúa, Bà-la-môn và các đệ tử ca ngợi là lẽ đương nhiên. Thế nhưng,bằng tinh thần cầu thị, tiến bộ và yêu thương đồng loại, đức Phật đã cực lực chỉ trích những quan điểm cổ hủ, lỗi thời, gây đau khổ cho con người và kìm hãm sự tiến hoá của xã hội; vì vậy, Ngài cũng gặp không ít những sự chống đối, đả kích từ phía những kẻ mù quáng, bảo thủ và cố chấp. Thiết tưởng, những ý kiến phản bác đức Phật cũng nên công bố vào một dịp nào đó, để nói lên tinh thần khách quan, vô tư của đạo Giác ngộ.
***
(1). Trường bộ kinh tập III (kinh Đại điển tôn), tr.222, Xb.1972.
(2). Tương ưng bộ kinh tập I, tr.82 , Xb.1982.
(3). Trường bộ kinh tập I (kinh Sa-môn quả), tr.85; (kinh A ma trú), tr.88, Xb.1973
(4). Trung bộ kinh tập II (kinh Pháp trang nghiêm), tr.436; (Kinh Brahmàyu), tr.456. Xb.1982.
(5). Trường bộ kinh tập II (kinh Sonadanda), tr.114; (kinh Kutadanta), tr.131, Xb.1967.
(6). Trường bộ kinh tập II (kinh Sonadanda), tr.114; (kinh Kutadanta), tr.131, Xb.1967.
(7). Tăng chi bộ kinh IIB (IV, 194), tr.280, Xb .1981.
(8). Trường bộ kinh tập I (kinh Sa-môn quả), tr.85; (kinh A ma trú), tr.88, Xb.1973
(9). Trung bộ kinh tập II (kinh Pháp trang nghiêm), tr.436; (Kinh Brahmàyu), tr.456. Xb.1982.
(10). Trung bộ kinh III (kinh Tiểu nghiệp phân biệt), tr.405, Xb .1975).
(11). Trường bộ kinh tập IV ( kinh Tự hoan hỉ), tr.101, Xb,1972.
(12). Kinh Di giáo trong luật Sa-di-ni quyển một, HT. Trí Quang dịch giải, tr.113, Xb, 1973.
(13). Tăng chi bộ kinh tập I (XIII, Phẩm Một người), tr.28, Xb.1980.