1. NHẬN THỨC VÔ THƯỜNG
Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành.
Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị bội. Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế.
Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu.
Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?
2. LÀM NGƯỜI THONG DONG
Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự.
Miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly.
Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị tỷ kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng.
Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh.
Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất.
Đạo sư hữu sắc, giới húc tỷ kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc.
Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực.
3. VƯỢT THÓI PHÀM TỤC
Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Quỹ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết.
Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ.
Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.
Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô.
Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất tiên khởi.
Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô; khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu.
Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo.
4. KHÔNG HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI
Như tư chi kiến cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm nhân gian, toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường.
Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.
Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng.
Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu.
Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp.
Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy.
Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi.
Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số.
Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi.
Lược thân quản kiến, dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.
5. GƯƠNG HẠNH THOÁT TỤC
Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu.
Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị.
Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm.
Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.
Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời.
Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng.
Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn.
Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn.
Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận;
Hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.
6. CĂN BẢN THIỀN TẬP
Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.
Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên.
Bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu; thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm.
Thử tắc phá tam giới nhị thập ngũ hữu, nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh.
Bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục.
Văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na biên ứng dụng bất khuyết.
Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu.
Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc.
7. TÂM NGUYỆN NGƯỜI TU
Thử chi nhất học tối huyền tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám. Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp.
Tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì.
Trú chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng thiên tầm: phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích.
Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh thù diệu nhân quả.
Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến.
Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi.
Cổ vân, bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích.
Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân.
Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối, tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông.
8. GIÚP NHAU THOÁT KHỎI SINH TỬ
Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị.
Thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ.
Cố kinh vân: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ.”
Cố tri tam giới hình phạt oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật.
Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì.
Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:
9. BÀI MINH TÓM TẮT
Huyễn thân mộng trạch,
Không trung vật sắc,
Tiền tế vô cùng,
Hậu tế ninh khắc?
Xuất thử một bỉ,
Thăng trầm bì cực,
Vị miễn tam luân,
Hà thời hưu tức?
Tham luyến thế gian,
Ấm duyên thành chất,
Tùng sanh chí lão,
Nhất vô sở đắc.
Căn bản vô minh,
Nhân tư bị hoặc,
Quang âm khả tích,
Sát na bất trắc.
Kim sanh không quá,
Lai thế trất tắc.
Tùng mê chí mê,
Giai nhân lục tặc,
Lục đạo vãng hoàn,
Tam giới bồ bặc.
Tảo phóng minh sư,
Thân cận cao đức,
Quyết trạch thân tâm,
Khử kỳ kinh cước.
Thế tự phù hư,
Chúng duyên khởi bức,
Nghiên cùng pháp lý,
Dĩ ngộ vi tắc.
Tâm cảnh câu quyên,
Mạc ký mạc ức,
Lục căn di nhiên,
Hành trú tịch mặc.
Nhất tâm bất sanh,
Vạn pháp câu tức.
|
1. NHẬN THỨC VÔ THƯỜNG
Vì nghiệp buộc mà nên thân vóc
Do hình hài khó thoát khổ thân
Tinh cha, trứng mẹ tạo nên
Cơm ăn, nước uống, nhờ duyên hình thành.
Bốn đại chủng tương quan, tương thuộc
Rồi đồng thời xung khắc lẫn nhau
Vô thường, già, bệnh đến mau
Sớm còn tối mất, giây sau đổi đời.
Như sương móc vừa rơi thắm thoát
Nắng đầu ngày bỗng chốc thành không!
Dây leo, cây mọc bờ sông
Tuổi đời ngắn ngủi, vô thường đến nhanh.
Mỗi tâm niệm diệt sanh chóng mặt
Ngày tháng dường chỉ một sát-na
Kiếp người hơi thở vào ra
Chớ nên bỏ mặc, trôi qua biếng lười.
2. LÀM NGƯỜI THONG DONG
Xa cha mẹ, mấy khi phụng dưỡng
Lìa người thân, hương đảng, tông đường
Không còn nghĩa vụ nối dòng
Không màng chính trị, chuyên ròng công phu.
Quyết cạo tóc cầu sư học đạo
Giữ niềm chơn, hoằng pháp độ sinh
Chuyển nghiệp đời, quý hòa bình,
Hướng về giải thoát, rộng thênh con đường.
Vừa thọ giới tự phong “đại đức”
Chẳng nghĩ công đàn việt cúng dâng
Cơm: thí chủ, của: mười phương
Không tự dưng có, huênh hoang được gì!
Ăn vừa dứt, thị phi phù phiếm
Chụm đầu vào toàn chuyện thế gian
Ham vui, ấy chính khổ nhân
Nỗi trôi bao kiếp nhiễm trần, khó thông.
Thời gian mất, tháng năm lần lữa
Hưởng thụ nhiều, khó bỏ thói quen
Chạy theo danh sắc hại tâm
Chứa gôm tài vật, lụy thân huyễn này?
Xưa Phật dạy các thầy tu sĩ
Đạo trang nghiêm, thân thể tịnh thanh
Chuyện ăn, mặc, ngủ: chớ tham
Thường không đầy đủ; chuyên tâm tu hành.
Kẻ phàm tục đắm tham, khó dứt
Tháng ngày trôi, phút chốc bạc đầu.
Mới tu chưa hiểu đạo mầu,
Học tu, tham vấn; chớ sầu áo cơm.
3. VƯỢT THÓI PHÀM TỤC
Phật chế Luật khai tâm, chuyển hóa
Gìn oai nghi, sạch tựa tuyết băng
Dừng sai, giới hạnh trắng trong
Hiểu rành điều cấm để không phạm vào.
Quyết nuôi dưỡng “tâm đầu” gìn giữ
Tế hạnh đều đầy đủ hành trì
Niệm tâm trong lúc đứng, đi
Vượt qua thói tệ; Tỳ-ni nằm lòng.
Buông giới luật, không thông kinh giáo
Uổng một đời, láo ngáo luống trôi
Kệ kinh chẳng chút đoái hoài
Đạo mầu khó ngộ, tháng ngày khổ đau.
Tuổi tác lớn, tự cao, bụng rỗng
Không bạn lành; ngạo mạn, huênh hoang
Kinh chẳng thuộc, nghĩa chẳng thông
Chẳng hay tự chủ, buông lung tháng ngày.
Quen lớn tiếng, nói lời vô phép
Không kính, nhường hạ lạp thấp cao
Ăn xong dậy trước, bỏ sau
Uống ăn khua bát, ồn ào khó nghe.
Trái phép tắc, hạnh tu chẳng có
Ngồi, đứng, đi như thể người đời
Làm thì động chúng, rối bời
Sống không gương mẫu, không ai(1) nễ mình.
Được nhắc nhở, biện minh đủ lẽ
“Nào tôi tu núi cả, hang sâu”
Không rành pháp Phật nhiệm mầu,
Thói đời vẫn nhiễm, đạo cao chẳng rành.
4. KHÔNG HOANG PHÍ CUỘC ĐỜI
Đó là bởi sơ tâm biếng nhác
Chạy theo đời, nhiễm mắc thói đời,
Lớn già, quê kệch, lôi thôi
Gặp việc chẳng biết, hỡi ơi, bí lù.
Kẻ hậu học hỏi thưa rát cổ
Chẳng biết gì, nên chả giúp gì
Nói sai kinh, bị người chê
Cho là vô lễ, sân si, lấn người.
Một mai bệnh, hỡi ơi, khổ cực
Bao đớn đau trói buộc tấm thân
Sớm lo, tối hoảng tinh thần
Tương lai mờ mịt, biết đường nào đây?
Ra nông nỗi, tiếc đời ta bạc
Đào giếng ư, lúc khát khô mồm?
Hận mình chẳng sớm tu nhân
Đến khi già bệnh, lỗi lầm triền miên.
Khi chết đến, thân liền tan rã
Tâm hoang mang, lo sợ mà thôi
Cũng như lồng thủng chim bay
Tâm do nghiệp kéo, đầu thai tức thời
Như con nợ bị lôi, mất sức
Nghiệp nặng ghì, lê bước theo sau
Ác nhiều sinh ở cõi sầu
Thiện sinh cõi phúc, khổ đau giả từ.
Dòng tâm niệm trôi đi không dứt
Quỷ vô thường bất giác kề bên
Thời gian không kéo dài thêm
Mạng người sẽ chết, chớ quên điều này.
Trong ba cõi luân hồi khó thoát
Phải tái sinh bao kiếp nỗi trôi
Nghiệp duyên, sinh tử vậy thôi
Trầm luân lên xuống, lâu dài biết bao.
Vì thương xót, lòng đau như cắt
Khó nín thinh, khuyên nhắc mấy lời
Chúng ta cách Phật bao đời
Sinh thời tượng pháp, nhiều người chẳng siêng
Chẳng quản ngại tài hèn, trí kém
Khuyên người sau tinh tấn tu thân
Nếu không bỏ thói kêu căng
Con đường chuyển hóa xa dần, khó xong.
5. GƯƠNG HẠNH THOÁT TỤC
Người tu học hướng phương trời rộng
Thân và tâm khác bọn phàm phu
Nối truyền giống Phật, dẹp ma
Bốn ân quyết trả, cứu ba đường phàm.
Chưa được thế, là tăng sĩ dỏm
Hạnh và lời trống rỗng, đáng thương
Tốn hao tín thí, cuống cuồng
Cả đời lựng khựng, tựa nương chỗ nào?
Làm tăng sĩ, hạnh cao, tướng đẹp
Do nhiều đời gieo hạt giống lành
Cớ sao chẳng quý thời gian!
Khoanh tay chểnh mãng, bỏ hoang cuộc đời?
Sự nghiệp đạo chẳng hoài, lười biếng
Chẳng công phu, tu tiến được sao?
Đời này luống uổng qua mau
Nhân nào quả nấy, đời sau tiêu tàn!
Mặc pháp phục, song thân từ giả
Hướng tâm về chí cả, trời cao
Sớm hôm nghĩ nhớ đạo mầu
Tiếc từng giây phút, lúc nào cũng tu.
Làm cho được cột nhà Phật pháp
Vì hậu sinh, gương mẫu tấm thân
Giữ gìn phong độ tu hành
Những người như thế xứng hàng chân tăng.
Mọi lời lẽ thấm nhuần kinh pháp
Luận đàm gì cũng khớp thánh nhân
Hình dung đỉnh đạc, đàng hoàng
Nêu cao chí khí, thênh thang đạo vàng.
Hành trình lớn, cần nương bạn tốt
Gạn đục trong, thanh lọc mắt, tai
Gần nhau, chọn bạn mà chơi
Biết điều chưa biết, sáng ngời thấy nghe.
Sanh thân vóc là do cha mẹ
Trưởng thành nhờ thầy cả, bạn hiền
Đi trong sương móc thường xuyên
Tuy không ước áo, lạnh mèm tấm thân.
Chơi kẻ ác lớn thêm nghiệp ác
Nhân xấu thường phải chuốt khổ đau
Chết rồi chìm đắm cõi sầu
Trôi lăn nhiều kiếp, biết bao giờ ngừng?
6. CĂN BẢN THIỀN TẬP
Lời ngay thẳng trái ngang thính giác
Nghe xong rồi khắc cốt ghi tâm
Vun trồng đức hạnh, ẩn danh
Lánh xa huyên náo, tinh thần sáng trong.
Khi đã muốn tham thiền, học đạo
Hãy vượt lên phương tiện sơ môn
Nghiên tầm nghĩa lý tâm tông
Đạo mầu tỏ ngộ, nguồn chơn nằm lòng.
Học thầy giỏi, sống nương bạn tốt.
Thiền tông cao khó đạt, khó thông
Dụng tâm tinh tế hết lòng
Chánh nhân đốn ngộ, thoát vòng trầm luân.
Đó là thoát hăm lăm cảnh giới
Không kẹt vào ba cõi bụi hồng
Trong ngoài các pháp đều không
Từ tâm biến hiện, danh suông thôi mà!
Tâm chẳng dính, sa đà theo cảnh
Thì cảnh nào bám dính được tâm
Nương theo pháp tánh thậm thâm
Chẳng buông, chẳng nắm cảnh trần thong dong.
Mắt thấy sắc, tai đương nghe tiếng
Gìn thản nhiên, chẳng vướng cõi lòng
Tích môn và cả bản môn
Ứng dụng đầy đủ, vẹn tròn đạo tâm.
Người như vậy xứng danh tu sĩ
Mặc pháp y chẳng phí chút nào
Trên đền đáp bốn ân sâu
Dưới thương ba cõi, dãi dầu độ sanh.
Nếu kiếp kiếp giữ tâm không chuyển
Quả Phật kia sẽ chứng được thôi
Ra vào ba cõi độ người
Noi gương mô phạm, cứu đời trầm luân.
7. TÂM NGUYỆN NGƯỜI TU
Lối học đó thậm thâm, mầu nhiệm
Lòng dặn lòng, thể nghiệm thực hành.
Hạng trung chưa thể tựu thành
Tâm nghiền thánh giáo, ôn tầm nghĩa chơn.
Nắm nghĩa lý, tuyên dương chánh pháp
Độ người sau, báo đáp Phật ân.
Chuyên tu, chớ phí thời gian
Nương công hạnh ấy, làm nhân cứu mình.
Biết nương tựa thắng nhân, hạnh tế
Xứng vào hàng pháp khí Tăng đoàn.
Nhìn xem dây sắn quấn quanh
Bám cây tùng bách, ngang tầm trời cao.
Chớ buông lơi, thiếu sót, lỗi lầm
Giữ gìn phong cách tu tâm
Nhân nào quả nấy, thậm thâm khó lường.
Chớ luống uổng tháng năm vô ích
Dòng đời trôi vùn vụt qua nhanh
Quý từng tích tắc thời gian
Quyết lòng tu tiến, ngày càng thăng hoa.
Chớ lạm dụng đàn na cung dưỡng
Khó đáp đền bốn trọng ân kia
Chứa nhiều, tâm bít, u mê
Bị đời khinh rẻ, cười chê tháng ngày.
“Người trượng phu, ta đây cũng thế
Chớ khinh mình mà tự thoái lui.”
Bằng không luống uổng một đời
Tự ti vô ích cho người và ta.
Chí nguyện lớn phát ra mạnh mẽ
Hoài bão hùng, nối chí cao nhân
Chớ theo lè thói hư hèn
Đời ta ta quyết, chớ nương người ngoài.
“Dứt vọng thức, buông duyên ngoại tại
Cảnh và tâm hết đối chọi nhau
Tâm không, cảnh tịch: Nhiệm mầu.”
Chỉ vì bế tắc quá lâu, chẳng rành.
8. GIÚP NHAU THOÁT KHỎI SINH TỬ
Hãy nghiền ngẫm lời văn Cảnh sách
Giành chủ quyền coi sóc bản thân
Vượt qua lề thói nghiệp trần
Một khi quả trổ, trốn quanh khó lòng.
Âm thanh thuận tiếng vang hòa thuận
Hình thẳng ngay, bóng dáng thẳng ngay
Nhân nào quả nấy xưa nay
Không thể không sợ, có ngày đến ta.
Kinh đã dạy: “Trải qua ngàn kiếp
Nghiệp đã gieo chẳng mất đi đâu
Nhân duyên hội ngộ, đáo đầu
Ai làm nấy chịu, khổ đau bám rình.”
Trong ba cõi, nghiệp hình ràng buộc
Ám hại ta chẳng khác sát nhân
Ngày đêm nỗ lực chuyên cần
Kẻo không, năm tháng trôi nhanh được gì?
Thấy họa, tội, tôi đây tha thiết
Khuyên người sau tâm huyết thực hành
Làm bạn đạo khắp tử sinh
Tâm thành ghi lại lời Minh thế này:
9. BÀI MINH TÓM TẮT
“Thân huyễn khác nào nhà mộng,
Rỗng không hình hài bóng sắc
Truy nguyên quá khứ không cùng
Hướng về tương lai không chắc.
Ẩn hiện nơi này, nơi khác
Lên xuống ba đường cực nhọc
Nếu không thoát khỏi ba vòng
Khổ đau bao giờ mới dứt?
Mãi mê tham luyến thế gian
Năm uẩn gặp duyên chồng chất
Từ lúc sinh ra đến chết
Hầu như không gì giữ được!
Chỉ vì còn kẹt vô minh
Rốt cuộc chìm trong mê hoặc
Hãy quý từng phút từng giây
Cuộc đời vô thường bất trắc.
Đời này luống qua vô ích
Đời sau gặp nhiều ngăn lấp
Vướng kẹt mê này mê khác
Hoành hành đều do sáu giặc.
Qua lại, loanh quanh sáu đường
Ba cõi xuống lên lăn lóc
Quyết chí tầm sư học đạo
Siêng năng nương bậc cao đức.
Quán chiếu, làm chủ thân tâm
Diệt trừ tất cả gai góc
Đời như gió thổi mây bay
Trần lao quá nhiều áp lực.
Nghiên cứu thực hành Kinh Phật
Quyết lòng đạt được tuệ giác
Đến khi tâm cảnh đều quên
Xóa mờ làn ranh ký ức.
Dẹp yên sáu giặc giác quan
Đi, đứng, nằm, ngồi: Tĩnh mặc
Một khi tâm đã không sinh
Muôn pháp trong ngoài đều dứt.
|