(giảng tại trường trung học Xá Vụ Hoa Kiều ở Philippin)
Phật giáo truyền vào Trung Quốc, đã có lịch sử hơn 1.900 năm rồi, cho nên quan hệ giữa Phật giáo và Trung Quốc hết sức mật thiết. Văn hóa, tập tục Trung Quốc, ảnh hưởng Phật giáo, Phật giáo cũng ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, Phật giáo đã trở thành Phật giáo chung của chúng ta. Song Phật giáo được phát xuất từ Ấn Độ, đặc sắc của văn hóa Ấn Độ, có những điểm người Trung Quốc không dễ gì hiểu nỗi; truyền sang Trung Quốc, chịu ảnh hưởng tập tục Trung Quốc, có một số không hợp với bổn ý của Phật giáo. Cho nên Phật giáo tại Trung Quốc, người tin Phật pháp và người không tin Phật pháp, đối với Phật giáo đều có ít nhiều hiểu sai. Không rõ ý nghĩa chính của Phật giáo, vì thế sinh ra kiến giải sai lầm, do đó người tin Phật pháp, không thể có tín ngưỡng một cách chính xác; người phê bình Phật giáo, cũng chẳng phê bình đến bản thân của Phật giáo. Thầy cảm thấy người tín ngưỡng Phật giáo hoặc người hoài nghi bình luận Phật giáo, trước hết phải vứt bỏ hiểu sai đối với Phật giáo, như vậy mới có khả năng nhận thức Phật giáo chân chính. Bây giờ thầy sẽ đưa ra mấy điểm trọng yếu để bàn luận, hi vọng thính chúng đang ngồi đây, sinh khởi được kiến giải chân chính.
I. HIỂU LẦM TỪ GIÁO NGHĨA CỦA PHẬT GIÁO
Đạo lí của Phật giáo rất sâu xa, có người không thể hội được ý nghĩa thâm sâu, chỉ hiểu trên bề mặt văn tự. Nghe được một vài danh từ, liền đem ra giảng như thế này, nói như thế kia, kết quả không hợp với ý gốc của Phật giáo. Phổ biến nhất, là các danh từ “nhân sinh là khổ”, “xuất thế gian”, “tất cả đều không”… Đương nhiên những danh từ này được nói ra từ chính kim khẩu của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, vả lại là lí luận quan trọng của Phật giáo, nhưng rất ít người có khả năng hiểu rõ nó một cách chính xác. Bây giờ sẽ phân biệt ra giảng nói:
1. Nhân sinh là khổ: Đức Như Lai chỉ cho chúng ta thấy, cuộc sống này là khổ. Người không rõ nghĩa chân thật trong đó, liền sinh khởi quan niệm sai lầm, cho rằng cuộc sống của chúng ta chẳng có chút ý nghĩa gì cả, do đó dẫn đến bi quan tiêu cực, thiếu sức mạnh trong việc nỗ lực hướng thượng hướng thiện. Đây là vấn đề bị hiểu lầm phổ biến nhất, là danh từ bị những thành phần tiêu cực, bi quan trong xã hội lấy ra để phê phán Phật giáo; càng đau lòng hơn, khi những người có tín ngưỡng Phật giáo, cũng hiểu lầm bi quan tiêu cực như vậy. Kì thật, câu “nhân sinh là khổ”, tuyệt nhiên chẳng phải mang ý như vậy.
Bất kì cảnh giới gì, lúc chúng ta tiếp xúc đến, sẽ sinh ra cảm giác không hợp với ý của mình, dẫn đến đau khổ, buồn bực; nếu lấy cảm giác đó cho là khổ, không thể nói nhân sinh đều là khổ được. Vì sao? Bởi nhân sinh cũng có rất nhiều chuyện vui. Ví dụ nghe những âm thanh không thích cố nhiên chán ghét, nhưng nghe đến âm điệu vi vu, không thích sao? Thân mang bệnh tật, gia cảnh khốn khổ, người thân chia cách, đương nhiên là khổ, nhưng thân thể khỏe mạnh, tiền của dư dả, gia đình đoàn tụ, không phải rất vui sao? Bất luận chuyện gì, khổ vui đều tương đối; giải sử gặp chuyện bất như ý, liền nói nhân sinh là khổ, chẳng phải nhìn thiên lệch sao!
Thế thì, Đức Phật nói nhân sinh khổ, khổ này nghĩa gì? Trong kinh ghi: “Vì vô thường cho nên khổ”, tất cả mọi thứ đều vô thường, biến hóa, đức Như Lai dùng ý vô thường biến hóa để nói nhân sinh đều là khổ. Ví dụ thân thể khỏe mạnh chẳng phải vĩnh viễn, nó sẽ già yếu, bệnh tật và chết dần dần; có tiền cũng không thể cất giữ vĩnh viễn, có khi cũng biến thành nghèo xơ nghèo xác; quyền vị thế lực cũng không nắm giữ được lâu, cuối cùng cũng bị lật đổ hoặc về hưu. Sở dĩ đức Như Lai nói nhân sinh là khổ, khổ nghĩa là thiếu khuyết, không lâu dài, chẳng triệt để. Người thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, nếu không hiểu rõ ý nghĩa chân thật, cho rằng nhân sinh đã không viên mãn triệt để, sẽ dẫn đến thái độ bi quan tiêu cực; người chân chính hiểu rõ Phật pháp, có nhận thức hoàn toàn ngược lại. Cần phải biết câu nói của đức Như Lai: nhân sinh là khổ, chúng ta phải biết hiện tại cuộc sống này không triệt để, chẳng vĩnh cửu, sau khi biết rõ, mới có thể tạo thành cuộc sống vĩnh cửu viên mãn. Cũng giống như người bệnh, trước tiên cần phải biết mình có bệnh, mới khẩn khoản mời bác sĩ đến chữa trị, nhờ đó bệnh mới thuyên giảm, thân thể được phục hồi. Vì sao nhân sinh không triệt để không vĩnh cửu mà đau khổ? Nhất định có tồn tại nguyên nhân đau khổ, biết được nguyên nhân của khổ, mới ra sức tiêu trừ nhân khổ, sau đó có thể đạt được an lạc viên mãn triệt để. Cho nên đức Như Lai không chỉ riêng nói nhân sinh là khổ, mà còn nói nhân khổ của khổ, diệt trừ nhân khổ, liền đạt được an lạc cứu cánh. Người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, nên y theo phương pháp Đức Phật đã chỉ dạy mà tu hành, triệt để cải biến nhân sinh không triệt để không viên mãn này, trở thành nhân sinh cứu cánh viên mãn. Cảnh giới này, Phật pháp gọi là Thường, lạc, ngã, tịnh.
Thường là vĩnh cửu, lạc là an lạc, ngã là tự do tự tại, tịnh là thanh tịnh thuần khiết. Hợp bốn chữ này lại, chính là an lạc vĩnh cửu, tự do vĩnh cửu và thuần khiết vĩnh cửu. Mục tiêu lớn nhất của Phật giáo, không chỉ đơn thuần vạch rõ nhân sinh là khổ, mà còn chỉ bày điểm quan trọng, đó là cải biến nhân sinh khổ (nhà Phật gọi là chuyển y), chuyển thành nhân sinh vĩnh cửu an lạc, tự do, tự tại, thuần khiết thanh tịnh. Chỉ rõ nguyên nhân khổ của chúng ta ở đâu, nỗ lực thực hành để đạt đến mục tiêu đó như thế nào. Cảnh giới thường lạc ngã tịnh, là cảnh giới lí tưởng tuyệt đối, hi vọng lớn nhất, cái mà mỗi chúng ta đều có thể đạt đến. Thế thì làm sao có thể nói Phật giáo tiêu cực bi quan!
Tuy nhiên, không nhất định ai cũng đều có khả năng đạt đến cảnh giới đỉnh điểm này, song chỉ cần biết rõ đạo lí này, quả thật đã tốt đẹp vô biên rồi. Như người bình thường, lúc gặp khó khăn khốn khổ, vẫn biết nỗ lực làm thiện, đến khi được giàu có, lại quên tất cả những khó khăn khốn khổ trước kia, suốt ngày chỉ lo hưởng thọ, mơ hồ đâm thẳng vào đường sai. Người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, không chỉ lúc khó khăn khốn khổ mới biết nỗ lực hướng thượng, mà ngay cả khi hưởng thọ khoái lạc cũng luôn lưu tâm, bởi khoái lạc chẳng phải là cái để mình có thể nương tựa lâu dài, nếu không ra sức hướng thiện, nhất định sẽ đọa lạc thất bại rất nhanh. Nhân sinh là khổ, là tiếng chuông cảnh tỉnh chúng ta không nên chú trọng đến việc hưởng thọ mà tự đưa đầu vào rọ, đây cũng là ý nghĩa đặc biệt quan trọng của việc đức Như Lai nói nhân sinh khổ.
2. Xuất thế: Phật pháp nói có thế gian và xuất thế gian, nhưng rất nhiều người hiểu lầm, cho rằng thế gian chính là thế giới chúng ta đang sống, còn xuất thế gian là nơi đó xa xôi ngoài thế giới chúng ta đang ở. Sai lầm trầm trọng, chúng ta ở trong thế giới này, cho dù xuất gia cũng vẫn đang có mặt trong thế giới này. Thành A-la-hán, Bồ-tát, Phật, đều là chư vị thánh nhân xuất thế gian, nhưng các Ngài vẫn thị hiện vào thế giới này cứu độ chúng sinh. Qua đây thấy được ý của từ “xuất thế gian”, chẳng phải ôm chạy đến một nơi nào đó.
Thế thì thế gian và xuất thế gian mà Phật pháp nói đến là ý gì? Theo cách giải thích của Trung Quốc, “thế” nghĩa là có tính thời gian, như 30 năm là một thế; các nước phương Tây cũng có ý như vậy, họ gọi 100 năm là một thế kỉ. Cho nên ý nghĩa của chữ thế, chính là có tính thời gian, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến vị lai, thời gian ở trong đó gọi là thế gian. Phật pháp cũng như vậy: Có thể biến hóa gọi là thế, về khía cạnh thời gian, từ quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến vị lai, từ có đến không, tốt đến xấu, đều luôn biến hóa, tất cả những thứ trong biến hóa, đều gọi là thế gian. Thế còn có nghĩa là che đậy. Người bình thường không hiểu rõ nhân quả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, không biết mình từ đâu đến, phải làm người như thế nào, chết rồi đi về đâu, chẳng biết ý nghĩa nhân sinh, bản thể vũ trụ, mê mờ trong nhân quả ba đời, người như thế này gọi là thế gian.
Như thế nào mới gọi là xuất thế gian? Xuất nghĩa là vượt qua hoặc hơn. Có khả năng học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, có trí tuệ, thông đạt chân lí vũ trụ, nhân sinh, tâm thanh tịnh, không phiền não, thể nghiệm chân lí vĩnh hằng, gọi là xuất thế. Chư Phật, Bồ-tát đều thị hiện ở trong thế giới này, nhưng các Ngài có được trí tuệ rộng lớn để thông đạt chân lí, tâm thanh tịnh, không giống những người bình thường. Cho nên danh từ xuất thế gian, dùng để chỉ cho những người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà như chúng ta, tiến thêm một bước nữa có khả năng làm người trên người, từ phàm phu lên bậc thánh, chứ chẳng phải nói chúng ta ôm chạy đến thế giới khác. Do không hiểu rõ ý nghĩa Phật pháp xuất thế, cho rằng Phật giáo trốn tránh hiện thật, rồi dẫn đến những phê phán không chính đáng.
3. Tất cả đều không: Đức Như Lai nói tất cả đều không, có một số người hiểu lầm, cho rằng như thế này cũng không, như thế đó cũng không, cái gì cũng đều không, cái gì cũng chẳng có, không có ngang dọc, không có ý nghĩa, người như vậy đối với việc xấu không thèm ngó, việc tốt cũng chẳng làm, mơ mơ màng màng, buông xuôi theo dòng đời, nghĩ cuộc sống như thế tốt rồi. Kì thật ý nghĩa chữ Không trong Phật pháp, hàm chứa triết lí tốt đẹp cao thâm, chư Phật, Bồ-tát chính là những vị ngộ được chân lí Không. Không chẳng phải thứ gì cũng không có, ngược lại đều có hết thảy. Thế giới là thế giới, nhân sinh là nhân sinh, khổ là khổ, vui là vui, tất cả đều có sẵn. Trong Phật pháp, nói một cách rõ ràng có tà có chính, có thiện có ác, có nhân có quả; do đó, cần phải bỏ tà về chính, li ác hướng thiện, làm thiện được quả báo thiện, thật tâm thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà thì thành Phật, nếu nói thứ gì cũng không có, thế thì hà tất chúng ta khổ nhọc thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà làm gì? Không nghĩa là gì? Nhân duyên hòa hợp mà thành, chẳng có thể bất biến thực tại, gọi là không. Tà chính, thiện ác, nhân sinh, tất cả đều không phải là thứ nhất thành bất biến thực tại, mà đều nương tựa vào quan hệ nhân duyên mới có. Bởi vì được sản sinh từ nhân duyên, cho nên nương tựa vào sự chuyển hóa của nhân duyên mà chuyển hóa, không có thật thể nên gọi là Không. Lấy việc thật ra nói, ví dụ như một người đứng trước gương, trong gương có hình của người đó. Làm sao có được hình đó? Là do có gương, có người, lại cần phải có ánh sáng mặt trời hoặc đèn mới có thể xem thấy hình, nếu thiếu một thì hình không có, cho nên hình là do nhiều điều kiện mới sản sinh ra, không phải vật thể thật tại, tuy nhiên không phải thật thể, nhưng cái hình được thấy trong gương, là sự thật rõ ràng minh bạch chứ chẳng phải không có. Tất cả là không, hoàn toàn dựa vào chỗ sinh khởi của ý nghĩa nhân duyên mà nói. Vì thế đức Như Lai nói tất cả là không, đồng thời cũng nói hết thảy nhân duyên đều có; không chỉ cần phải thể ngộ tất cả là Không, mà còn cần phải biết có nhân có quả, có thiện có ác. Người thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, nên bỏ ác làm thiện, trong quá trình thực tập chuyển mê khai ngộ chứng đắc tính Không, tức không tức có, nhị đế viên dung. Thông thường người ta cho rằng Phật pháp nói không, có nghĩa là cái gì cũng chẳng có, là tiêu cực, là bi quan. Đây đều là hiểu lầm do không hiểu Phật pháp sinh ra, không thể không triệt để chỉnh sửa lại.
II. HIỂU SAI CHẾ ĐỘ CỦA PHẬT GIÁO
Phật giáo được truyền từ Ấn Độ sang. Về phương diện chế độ có điểm không giống với chế độ phong kiến của nước ta, đơn cử như xuất gia và ăn chay, người không quen, sinh ra rất nhiều rất nhiều hiểu lầm đối với những việc này.
1. Xuất gia: Xuất gia là chế độ của Phật giáo Ấn Độ, nhưng đối với xã hội đất nước chúng ta, đặc biệt Nho gia, có hiểu lầm rất lớn. Trong nước, mỗi khi nghe ai nói: Nếu mọi người cùng học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà hết, thì trên thế giới sẽ không còn người. Vì sao? Bởi vì mọi người đều xuất gia. Không có chồng vợ con cái, xã hội thành cái gì nữa? Tư tưởng này sai lầm hết sức nghiêm trọng, tôi thường ví dụ: Các thầy cô giáo dạy học cho học sinh, nơi đó dạy mọi người làm giáo viên, chẳng lẽ trở thành thế giới của giáo viên sao? Vấn đề này, ở Phi Đảo, không hiểu lầm lắm, bởi vì đến đâu cũng đều thấy Thần Phủ, Tu Nữ, họ cũng xuất gia, nhưng đây chỉ là bộ phận thiểu số trong giáo đồ Thiên Chúa giáo, chẳng phải ai tin Thiên Chúa giáo phải làm Thần Phủ, Tu Nữ cả. Người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, cũng có đệ tử xuất gia và đệ tử tại gia, người xuất gia có thể học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, người tại gia cũng có thể làm như vậy; người xuất gia có thể tu tập liễu sinh thoát tử, người tại gia giống như vậy cũng có thể tu hành liễu sinh thoát tử, chứ chẳng phải người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà nhất định đều phải xuất gia, do đó một lần nữa khẳng định, mọi người cùng học Phật, quyết chẳng hủy diệt nhân loại xã hội. Song người xuất gia và người tại gia, cũng đều có thể tu hành liễu sinh thoát tử, vậy đâu cần phải xuất gia? Vì cần phải hoằng dương Phật pháp, phát triển Phật giáo, do đó cần phải có người chủ trì Phật giáo, cầm cân nảy mực. Mà người có khả năng lèo lái con thuyền Phật pháp tốt nhất chỉ có người xuất gia sống đời tỉnh thức, bởi không phải gánh vác trọng trách gia đình, lại không làm các công việc của thế gian, vì thế mới có thời gian và nhất tâm nhất ý thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, nhất tâm nhất ý hoằng dương Phật pháp. Phật giáo cần phải tồn tại lâu dài ở thế giới này để làm lợi ích cho nhân loại và chúng sinh, nhất định cần phải có người duy trì và phát triển nó, cho nên từ xưa đến nay luôn tồn tại chế độ xuất gia này.
Công đức xuất gia có lớn không? Đương nhiên lớn, không nên miễn cưỡng, nếu miễn cưỡng xuất gia có khi không như pháp, thì người này chẳng khác nào tại gia. Trèo cao té nặng; công đức xuất gia rất lớn, nhưng không lưu tâm, đọa lạc càng nghiêm trọng. Cần phải xuất phát từ tâm chân thành tha thiết, siêng năng tinh tấn tu tập, hi sinh cho Phật giáo, nỗ lực hoằng dương Phật pháp, như vậy mới không hổ thẹn là người xuất gia sống đời tỉnh thức. Người xuất gia là nòng cốt trong Phật giáo, chủ thể phát triển Phật giáo. Không lập gia đình, tôn giáo ở phương Tây cũng có chế độ như vậy. Có rất nhiều nhà khoa học, triết học, vì sự nghiệp học hành, nghiên cứu của mình, tôn thờ chủ nghĩa độc thân, không muốn bị xích xiềng gia đình trói cột buộc ràng, dành cả cuộc đời nỗ lực nghiên cứu khoa học, triết học. Người xuất gia Phật giáo, cũng thoát li lụy phiền của thế gian, nhất tâm nhất ý vì Phật pháp. Cho nên xuất gia là việc làm của bậc đại trượng phu, phải siêng năng, dõng mãnh một cách đặc biệt. Nếu tùy tiện xuất gia, xuất gia mà không vì sự nghiệp của người xuất gia, thế chẳng có lợi ích chi cả, ngược lại còn phá hoại Phật pháp. Có một số người, vừa học Phật liền muốn xuất gia, giống như học Phật không xuất gia thì chẳng được, không những chính mình hiểu sai, mà còn khiến cho mọi người sợ hãi không dám đến học tập và phát nguyện thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà. Tư tưởng này học Phật phải xuất gia, rất tệ! Cần nhận thức rõ ràng xuất gia không dễ, trước tiên phải làm một cư sĩ tại gia tốt, học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, lợi mình lợi người. Nếu chân thật phát tâm rộng lớn, tu hạnh xuất gia sống đời tỉnh thức, nguyện hiến thân cho Phật giáo, như vậy mới xuất gia, xuất gia như thế, đối với bản thân vững chắc, đối với xã hội cũng không phát sinh ảnh hưởng xấu.
Quan hệ với xuất gia, còn có thêm hai điểm đáng nói nữa:
a. Có người thấy chùa Phật trang nghiêm rộng lớn, thanh tịnh tĩnh mịch xinh đẹp, do đó hâm mộ người xuất gia, cho rằng người xuất gia ở trong đó, có thí chủ đến cúng dường, không cần làm gì, ngồi an nhàn hưởng phước. Nếu lưu truyền loại người “ngày cao ba trượng như chẳng có, không bằng chư tăng nửa ngày nhàn”, chính là loại nói bậy này. Hẳn là họ chưa biết người xuất gia có việc của người xuất gia, lúc nào cũng phải dõng mãnh tinh tấn. Lúc mình tu hành, “đầu đêm cuối đêm, đều tinh tấn trên đường hướng đến quả vị Phật”; nói pháp cho tín đồ, đi du hóa khắp nơi, tuyên dương chân lí giải thoát của Phật-đà. Sống cuộc sống thanh bần giản dị, ra sức nỗ lực vì chúng sinh, vì Phật pháp, lợi mình lợi người, không đễ gì ai làm được, cho nên được tôn xưng là Tăng bảo, vậy có phải không làm gì cả, an nhàn hưởng phước, đợi thí chủ đến cúng dường không? Có lẽ hiện tại người xuất gia nhiều, mà người tận lực, chịu hi sinh cho trách nhiệm cao cả lại ít, cho nên xã hội mới có những hiểu lầm như vậy cũng nên!
b. Có một số người phản đối Phật giáo, đưa ra lập luận cho rằng người xuất gia chẳng làm việc gì, là người tiêu phí, sống kí sinh vào xã hội, thật vô dụng chẳng có ích lợi gì cả. Chẳng hay những người không nhất định phải làm nông, làm nghề, buôn bán, giáo viên, kí giả, cho đến những người làm những công việc tự do khác, cũng có thể khẳng định họ tiêu phí hết sao? Người xuất gia không phải không làm việc gì, nhìn vào cuộc sống thanh bần mà luôn dõng mãnh tinh tấn của họ, hằng ngày ngoài siêng năng học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà ra, họ còn thuyết pháp hướng dẫn mọi người tu thiện, chú trọng đức hạnh, tu trì, giúp nhân cách của tín chúng ngày một được đề cao, có khả năng thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà liễu sinh thoát tử, làm nhân sinh và thế giới được lợi ích lớn, như vậy làm sao có thể nói là người sống kí sinh không làm việc được chứ? Người xuất gia là giáo viên tôn giáo, có thể nói là người làm công tác giáo dục triệt để và cao thượng nhất. Cho nên những người không hiểu Phật pháp nói, người xuất gia thanh nhàn, hoặc nói người xuất gia sống kí sinh tiêu phí, đều không đúng. Chân chính xuất gia, chẳng phải như vậy, chẳng phải thanh nhàn mà rất bận rộn, không phải hao tổn mà có khả năng báo đáp ân của thí chủ.
2. Ăn chay: Tín đồ Phật giáo Trung Quốc chúng ta, đặc biệt chú trọng đến vấn đề ăn chay, cho nên người học Phật, cho rằng khi vừa học Phật phải ăn chay. Song những người không có khả năng bỏ được thịt, liền hiểu lầm rằng mình không có khả năng học tập, thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà. Xem tín đồ Phật giáo của những nước, như Nhật Bản, Tích Lan, Miến Điện, hoặc vùng Tây Tạng, Mông Cổ của nước ta…, không cần nói tín đồ tại gia, ngay người xuất gia cũng đều ăn thịt, bạn có thể nói họ không học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, chẳng phải tín đồ của Phật giáo không? Không nên hiểu lầm ăn chay mới học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, còn không ăn chay thì không được; học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà cùng ăn chay không phải hoàn toàn nhất trí. Có một số Phật tử, học tập chẳng đến đâu cả, chỉ học ăn chay, làm cho cha mẹ, anh em, con cái trong nhà xa lánh, cho rằng ăn chay phiền phức quá. Kì thật người học tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, nên như thế này: Sau khi tiếp xúc với giáo lí giải thoát của nhà Phật, trước tiên nên hiểu rõ đạo lí Phật pháp, dù ở nhà hay ngoài xã hội cũng đều nên áp dụng giáo lí giải thoát của Phật-đà, làm cho đức hạnh của mình ngày càng tốt, tâm địa ngày càng thanh tịnh. Khiến cho mọi người trong gia đình, nhận thấy trước khi bạn gặp phương pháp giải thoát của Phật-đà thì tâm tham lam lớn, sân hận nặng, thiếu khuyết tâm trách nhiệm và tâm từ bi, sau khi học Phật tất cả đều biến đổi, tâm tham lam giảm, sân hận ít đi, từ ái đối với mọi người, làm việc càng có trách nhiệm. Làm cho mọi người thấy được phương pháp giải thoát của Phật-đà rất tốt cho gia đình, xã hội, lúc này bạn muốn ăn chay, người nhà chẳng những không phản đối, ngược lại còn sinh tâm đồng tình, nhất định dần dần sẽ học theo bạn. Nếu vừa tiếp xúc với giáo lí giải thoát của Phật-đà chỉ có học ăn chay, chẳng chịu học thứ gì khác, nhất định sẽ phát sinh chướng ngại, làm cho người khác chê cười, hiềm ghét.
Tuy nhiên người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, không nhất định phải ăn chay, song ăn chay xác thật là đức hạnh tốt đẹp của Phật giáo Trung Quốc, đáng được đề xướng. Phật giáo nói ăn chay có khả năng nuôi lớn tâm từ bi, không nỡ giết hại mạng sống của chúng sinh, không nỡ ăn máu huyết của động vật, không những giảm thiểu nghiệp sát, vả lại tăng trưởng tâm đồng cảm đối với nỗi thống khổ của nhân loại. Đại thừa Phật giáo đặc biệt đề xướng ăn chay, cho rằng ăn chay có công đức rất lớn đối với việc trưởng dưỡng tâm từ bi. Cho nên người ăn chay mà không nuôi lớn được tâm từ bi, chỉ là giới sát tiêu cực, gần với Tiểu thừa!
Dùng pháp thế gian để nói, lợi ích của ăn chay rất lớn, nhẹ kinh tế, giá trị dinh dưỡng cũng cao, có thể giảm thiểu bệnh tật. Hiện tại trên thế giới, có tổ chức Quốc Tế Ăn Chay, bất luận là ai, thuộc tôn giáo nào, tổ chức nào, hễ thích ăn chay đều có thể tham gia, qua đây có thể thấy ăn chay là việc tốt, người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà càng nên đề xướng. Nhưng phải hết sức chú ý, không nên quá đề cao tiêu chuẩn học Phật, cho rằng học Phật bắt buộc phải ăn chay. Mỗi lần gặp bạn đồng tu, liền hỏi: Bạn có ăn chay không? Tại sao học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà lâu như vậy, mà vẫn không ăn chay? Điều này hợp nhất giữa thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà và ăn chay, sẽ có trở ngại cho việc hoằng dương giáo pháp giải thoát của đức Như Lai.
III. HIỂU SAI NGHI THỨC CỦA PHẬT GIÁO
Người không hiểu rõ Phật giáo, đến chùa thấy nghi thức lễ Phật, tụng kinh, bái sám, công phu sớm tối…, do không rõ được ý nghĩa chân thật của nó, liền phê phán những nghi thức này là mê tín. Vấn đề ẩn tàng bên trong rất nhiều, song hôm nay chỉ giải thích mấy vấn đề thôi:
1. Lễ Phật: Vào chùa lễ Phật, dâng hương, hoa, đèn cúng dường đức Như Lai. Tín đồ của thần giáo phương Tây, nói chúng ta bái thần tượng, là mê tín. Kì thật, Đức Phật là giáo chủ của chúng ta, bậc tỉnh giác đã đạt được cứu cánh viên mãn; chư Bồ-tát cũng là những vị đã sắp thành Phật. Các Ngài là nơi để chúng ta quay về nương tựa, là bậc hướng dẫn chúng ta tu tập. Tôn trọng chư Phật, Bồ-tát, đương nhiên cần phải có biểu hiện gì đó, giống như cung kính cha mẹ, phải có lễ phép. Lúc đức Như Lai còn tại thế, chẳng có vấn đề gì cả, có thể đến trực tiếp biểu thị cung kính với Ngài, nhưng hiện tại đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn đã thị hiện nhập Niết-bàn; còn chư Phật, Bồ-tát ở các thế giới, đều không hiện thân tướng ở thế giới chúng ta (không hiện thân tướng ở đây, nên hiểu là thân tướng con người thật mà mắt mình thấy, tai mình nghe theo sự suy nghĩ của người thế tục, chứ các Ngài vẫn luôn phóng hào quang và thị hiện các thân tướng khác ở mọi lúc mọi nơi), vì thế không thể không dùng giấy để vẽ, đất để nặn đắp, gỗ, đá khắc tạc hình tượng của các Ngài, làm đối tượng cung kính lễ bái. Bởi vì hình tượng của các Ngài biểu thị cho chư Phật, Bồ-tát, chúng ta mới cần phải cung kính lễ bái, chứ chẳng phải vì các Ngài là giấy, đất, gỗ, đá. Ví dụ chúng ta yêu đất nước của mình, vậy biểu thị cung kính như thế nào? Có phải dùng vải màu may thành quốc kì, khi kéo quốc kì lên, mọi người đều cung kính hướng đến quốc kì làm lễ, chúng ta có thể nói đây là hành vi mê tín hay không? Thiên Chúa giáo cũng có tượng, Cơ Đốc giáo tuy không có tượng, nhưng cũng có cây thánh giá chữ Thập làm đối tượng cung kính, niệm tưởng, có người quì mọp dưới đất cầu xin, những hành động này so với lễ Phật có sai biệt gì? Nếu nói Phật giáo lễ bái Phật là bái thần tượng, chỉ là ác ý phá hoại chúng ta của tín đồ thần giáo phương Tây.
Còn về hương, hoa, đèn đuốc? Lúc đức Như Lai còn tại thế, người dân Ấn Độ dùng những thứ này cúng dường Ngài, đốt đèn biểu thị cho ánh sáng, hương hoa biểu thị mùi thơm của hương thanh khiết. Tin Phật lễ Phật, một mặt dùng những thứ này cúng dường Phật để biểu thị cung kính, kiền thành, một mặt biểu thị mình đạt được quang minh, thanh tịnh từ Ngài. Chứ chẳng phải cúng hoa đốt hương, làm cho Phật được nghe mùi hương, vị, đốt đèn đốt đuốc Đức Phật mới thấy mọi vật. Tôn giáo phương Tây, đặc biệt Thiên Chúa giáo, chẳng phải dùng những thứ này sao? Đây vốn là nghi thức cộng đồng của tất cả các tôn giáo. Lễ Phật cần phải hết sức cung kính kiền thành; khi lễ Phật, phải quán tưởng hình tướng, công đức của Ngài. Nếu một mặt lễ Phật, một mặt nghĩ Đông nghĩ Tây, hoặc nói chuyện, cười đùa, như thế thiếu cung kính, đánh mất ý nghĩa và công đức lễ Phật.
2. Lễ sám: Mỗi khi Phật tử lễ sám, tụng kinh, các tín đồ tôn giáo khác hoặc phi tôn giáo, cùng thường thường hiểu lầm cho đó là việc làm mê tín. Không biết, chữ “sám”, Ấn Độ gọi là “sám-ma”, ý là mình làm sau khi phạm sai lần gì đó, thừa nhận lỗi lầm của mình. Bởi vì con người chúng ta, từ đời quá khứ cho đến đời hiện tại, ai cũng tạo ra rất nhiều nghiệp lực của việc làm sai trái, phạm nhiều tội ác, do đó chiêu cảm quả khổ, chướng ngại con đường tu tập giải thoát. Vì để giảm nhẹ và tiêu trừ nghiệp lực chướng ngại, khổ nạn, cho nên đối trước chư Phật, Bồ-tát, chúng tăng, thừa nhận cái sai của mình, để tiêu trừ nghiệp chướng của bản thân. Trong Phật giáo có pháp môn lễ sám, đây cũng giống như là hối cải của đạo Gia Tô, trên sự tiến tu của tôn giáo, điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sám hối cần phải tự mình sám, xuất phát từ nội tâm chân thành tha thiết, mới hợp với ý của Phật giáo.
Người thế tục không biết sám hối, vậy phải làm như thế nào đây? Tổ sư thời xưa đã biên tập nghi thức sám hối, dạy chúng ta tụng từng câu từng lời, miệng tụng tâm suy nghĩ, như vậy cũng đã biết được ý nghĩa trong đó, sám hối tội nghiệp của mình rồi. Trong nghi sám hối dạy chúng ta lễ Phật, cầu Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ, thừa nhận sai lầm của mình như thế nào, ý thức được những khổ đau do sự giết hại gây ra; ý thức được khổ đau do lường gạt, trộm cắp gây ra; ý thức được hạnh phúc gia đình dựa trên nền tảng thuỷ chung, hoà thuận; ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chính niệm gây ra; ý thức được những khổ đau do sử dụng rượu, ma tuý, các chất kích thích, gây nghiện, các thực phẩm có độc tố và văn hoá phẩm đồi truỵ gây ra. Nhất tâm phát nguyện từ đây xin làm mới lại mình, không đi lên vết xe đổ trước kia nữa. Những thứ này đều là nghi thức sám hối của các tổ sư thời xưa dạy chúng ta (Gia Tô giáo cũng có văn cầu xin của Gia Tô minh họa), nhưng chủ yếu vẫn xuất phát từ tâm chân thành tha thiết hối cải.
Có một số người, ngay cả nghi thức có sẵn cũng không biết tụng niệm, thỉnh chư tăng đến tụng niệm cho mình, dần dần mình chẳng biết sám hối là gì, chỉ chuyên mời người xuất gia đến lễ sám thế cho mình. Có người khi cha mẹ, bà con qua đời, muốn dựa vào ân đức và oai lực của ba ngôi báu, để tiêu trừ nghiệp ác của cha mẹ, bà con, cũng mời người xuất gia đến lễ sám, cầu cho người chết được siêu thăng. Nhưng nếu không thể hội được bổn ý của Phật pháp, vì phô trương bề ngoài, vì phong tục dân gian, như vậy chỉ tốn tiền mà thôi. Thỉnh chư tăng đến lễ sám, tu tạo công đức, trong khi đó mình không tin Phật pháp, hoặc chẳng có chút thành ý khẩn thiết sám hối, thế thì đã đánh mất đi ý nghĩa và công đức lễ sám.
Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, ý nghĩa của sám hối bị mai một đi. Người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, tự mình không chịu sám hối, bất kì việc lớn nhỏ gì cũng đều mời chư tăng, làm cho người xuất gia phải bận rộn với việc Phật sự, hôm nay lễ sám cho nhà này, ngày mai làm công đức cho nhà kia. Có một số chùa chiền, ngày nào cũng lấy việc Phật sự làm sự nghiệp duy nhất, còn việc chính, chủ yếu của người xuất gia, lại buông bỏ không ngó ngàng đến, điều này chẳng lẽ là điềm báo hiệu Phật pháp sắp suy đồi rồi! Cho nên, sám hối chủ yếu là chính mình, nếu mình sám hối chân thành tha thiết, chỉ cần sám hối trong một giờ, cũng đã vượt xa công đức mời nhiều người, làm Phật sự mấy ngày. Hiểu rõ đạo lí này, đối với cha mẹ phải làm tròn bổn phận hiếu thuận của người con, mình nên tự thân sám hối cho cha mẹ công đức rất lớn, bởi nhân duyên huyết nhục tương thông, quan hệ mật thiết. Không được xem việc lễ sám, làm công đức, là việc làm của người xuất gia, như vậy không những không hay, mà chỉ làm tăng thêm sự hủy báng và hiểu sai của người thế tục mà thôi.
3. Thời khóa tụng kinh: Người học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật-đà, mỗi ngày sớm tối đều tụng kinh, niệm Phật, trong Phật giáo gọi là thời khóa tụng kinh. Cơ Đốc giáo mỗi ngày sớm tối cả lúc ăn cơm đều có cầu xin, tín đồ Thiên Chúa giáo mỗi ngày sớm tối cũng có đọc kinh thánh, đây là việc làm và nghi thức tôn giáo, xưa nay chẳng có vấn đề gì cả. Song vì vấn đề này, có mấy vị nói với tôi: “Không học Phật tốt quá, chứ khi vừa học Phật liền phát sinh rất nhiều vấn đề. Mẹ của con mỗi ngày hai thời sớm tối đều tụng kinh, mỗi lần như vậy mất một, hai tiếng đồng hồ, nếu mọi người học Phật đều như vậy, thì việc nhà chẳng ai làm.” Một số cư sĩ tại gia, xác thật có tụng kinh niệm Phật ở nhà, làm cho người ta hiểu sai Phật giáo chỉ để dành cho những người già nhàn rỗi, chứ chẳng phải là cái để mọi người học. Kì thật, việc tụng kinh sớm tối, không nhất định phải tụng kinh gì, niệm Phật gì, cũng không nhất định phải trì tụng bao lâu, hãy thực hành theo ý muốn của mình, theo tình hình thực tế mà định thời gian tụng niệm. Chủ yếu của người tu là xưng niệm ba phép quay về nương tựa (tam qui y); mười nguyện lớn (thập đại nguyện) của đức Bồ-tát Phổ Hiền cũng rất quan trọng. Từ khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào Nhật Bản, các tông phái như tông Tịnh Độ, tông Thiên Thai, Mật tông… đều có thời khóa tụng niệm của riêng mình, đơn giản mà không tốn nhiều thời gian, là tình hình Phật giáo của thời đại nhà Đường, Tống. Thời khóa tụng niệm gần đây của Phật giáo Trung Quốc chúng ta, (a) Chỗ dùng của các tòng lâm; mỗi tòng lâm có đến mấy trăm vị, một lần tập hợp, tốn nhiều thời gian, thích ứng với hoàn cảnh đặc thù này, cho nên thời khóa tụng tương đối dài. (b) Từ thời nhà Nguyên, Minh trở lại đây Phật giáo có xu hướng liên hợp; do đó, biên tập nghi thức tụng niệm, có đủ các nội dung, thích hợp cho người tu học của các tông phái khác nhau. Kì thật người tại gia cư sĩ, “không nhất định” phải như vậy (ở đây nói không nhất định, phải hiểu là sợ cản trở công việc làm ăn, chứ ai có thể sắp xếp được công việc, sớm tối đều tụng kinh, niệm Phật thì quá tốt). Trước kia ở Ấn Độ người hành pháp Đại thừa, mỗi ngày sáu lần hành Ngũ hối pháp. Thời gian ngắn một chút cũng không sao, lần sau có thể tăng thêm. Tóm lại, thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, không chỉ là nghi thức tụng niệm; người cư sĩ tại gia, quyết chẳng nên vì thời khóa tụng niệm dài ảnh hưởng đến công việc gia đình.
4. Đốt giấy tiền vàng mã: Thời xưa tại Trung Quốc khi cúng bái tổ tiên có phong tục đốt áo quần, đốt tơ lụa, cho tổ tiên dùng. Sau đó vì tiết kiệm, nên dùng giấy để thay; cuối cùng làm thành tiền, vàng, ngân phiếu, thậm chí nhà cửa phòng ốc, xe hơi để đốt. Đây đều là phong tục tập quán từ ngàn xưa để lại, diễn biến mà thành, chứ chẳng phải của Phật giáo.
Những việc làm này, cũng có điểm tốt, đó là biểu thị tấm lòng hiếu thảo đối với cha mẹ và những người đã khuất. Mình ăn uống, nghĩ nhớ đến cha mẹ tổ tiên; mình mặc áo, có nhà cửa, nghĩ đến tổ tiên, không quên ân đức của ông bà cha mẹ, có ý nghĩa chăm lo báo đáp những người quá cố. Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, để thích ứng với đất nước và con dân Hoa Hạ, cho nên Phật giáo mới phương tiện hợp nhất với tụng kinh, lễ Phật. Nhưng phong tục tập quán của Nho gia “lo cho người chết là việc lớn” và “lo hậu sự”, khó tránh chuyện phô trương lãng phí, đốt càng nhiều càng tốt, do đó mới dẫn đến sự phê phán của giới trí thức cận đại, mà Phật giáo cũng bị hiểu lầm là mê tín lãng phí. Người Phật tử hiểu rõ ý nghĩa này, tốt nhất không nên đốt giấy tiền vàng mã…, bởi trong giáo lí giải thoát của đức Như Lai chẳng cho phép làm việc này. Nếu vì tập tục không thể bỏ, tưởng nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đốt một chút tượng trưng, thì không được mang đến chùa đốt, để tránh Phật giáo mang tiếng xấu vì chúng ta.
5. Bốc xăm, xem bói, xin quẻ: Trong một số chùa, có các hành động như bốc xăm, rút hoa lăng tiêu, thậm chí còn xin quẻ, xem bói…, dẫn đến sự phê phán, chê cười của xã hội, cho là mê tín. Kì thật, Phật giáo thuần chính, không đồng ý với những hành vi như vậy (có hiệu nghiệm hay không, đó là chuyện khác). Người Phật tử chân chính thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, chỉ tin tưởng nhân quả. Nếu đời trước và đời này tạo tác nhiều nghiệp xấu, quyết chẳng có thể dùng phương pháp lấy điều lành đẩy điều xấu có thể tránh được. Làm thiện được quả báo lành, tạo ác tương lai tránh không khỏi quả báo xấu, muốn có được quả báo tốt, phải làm nhiều việc tốt công đức. Người đệ tử chân chính của đức Như Lai, chỉ biết làm nhiều việc tốt; tất cả mọi việc, đều làm hợp lí như pháp, nhất quyết không được dùng thủ đoạn đầu cơ thủ lợi. Thành phần đầu cơ này chẳng quan hệ gì đến Phật giáo cả, Phật tử chân chính tín ngưỡng Phật giáo, tuyệt đối phải tránh xa hành vi đê hèn của những người đội lốt tôn giáo này.
IV. HIỂU SAI TÌNH HÌNH HIỆN TẠI CỦA PHẬT GIÁO
Thông thường người Trung Quốc, không hiểu rõ Phật giáo, không nắm bắt tình hình Phật giáo quốc tế, chỉ nhìn tình hình hiện tại của Phật giáo Trung Quốc, rồi tùy tiện phê bình đánh giá Phật giáo, dưới đây là hai điểm mà chúng ta thường nghe những phần tử cực đoan phê phán:
1. Tín ngưỡng Phật giáo, quốc gia sẽ suy vong: Họ cho rằng Ấn Độ vì Phật giáo mới bị diệt vong, họ đòi hỏi đất nước Trung Quốc giàu mạnh, do đó độc đoán cho rằng không được tín ngưỡng Phật giáo. Kì thật những người này hoàn toàn sai lầm, chẳng có chút xíu kiến thức và am tường lịch sử, nếu ai nghiên cứu qua lịch sử, đều biết quá khứ Ấn Độ là đất nước rất giàu mạnh, cũng chính là thời đại hưng thịnh nhất của Phật giáo. Lúc đó, vua pháp A-dục của vương triều Khổng Tước thống trị toàn lãnh thổ Ấn Độ, ông cho người truyền bá Phật giáo khắp thế giới. Sau đó, Bà-la-môn giáo phục hưng trở lại, họ ra sức đàn áp Phật giáo, Ấn Độ cũng ngày càng hỗn loạn. Đương khi Hồi giáo và Đại Anh đế quốc ở Ấn Độ diệt vong, thì Phật giáo đã suy bại hoàn toàn thậm chí không còn. Trong lịch sử Trung Quốc, cũng đã xảy ra tình trạng như thế. Hiện tại gọi Hoa Kiều là người Đường, Trung Quốc là núi Đường, thì thấy được sự cường mạnh của triều đại nhà Đường ở Trung Quốc. Lúc đó, đúng vào thời kì Phật giáo hưng thịnh nhất; đến khi Đường Vũ Tông phá hoại Phật giáo, cũng chính là lúc triều đại nhà Đường suy yếu và dẫn đến diệt vong. Sau nhà Đường, là Tống Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông đều sùng kính Phật giáo, cũng chính là thời kì hưng thịnh của triều đại nhà Tống; điển hình như Thái Tổ vốn là người xuất gia, Thái Tông cũng hết sức tin Phật, chẳng phải là thời kì chính trị hưng thịnh, đất nước giàu mạnh sao? Tuy hiện tại Nhật Bản đã thất bại, nhưng sau Minh Trị Duy Tân, được liệt vào cường quốc của thế giới, họ đều tín ngưỡng Phật giáo, như vậy ai dám nói tin Phật làm cho đất nước suy yếu chứ? Cho nên trong lịch sử, thời kì đất nước giàu mạnh, chính là thời kì Phật giáo hưng thịnh. Thế thì tại sao hiện tại luôn hi vọng Trung Quốc giàu mạnh, ngược lại phản đối việc đề xướng Phật giáo!
2. Phật giáo chẳng có lợi ích gì cho xã hội: Gần đây các nhân sĩ Trung Quốc, thấy Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo… xây dựng trường học, bệnh viện, mà Phật giáo làm ít hơn, liền phê phán Phật giáo tiêu cực, không làm việc lợi ích xã hội, chẳng có tích sự gì cho xã hội cả, đây là những luận điệu hết sức sai lầm! Tốt nhất chỉ có thể nói: Gần đây tín đồ Phật giáo Trung Quốc không nỗ lực, không tận lực với trách nhiệm của mình, quyết chẳng phải Phật giáo bảo chúng ta không nên làm. Trước kia Phật giáo Trung Quốc, nói chung cũng ra sức làm việc từ thiện. Hiện tại tín đồ Phật giáo Nhật Bản, xây trường đại học, trung học… rất nhiều, nhiều người xuất gia cũng làm hiệu trưởng, giáo sư trong các trường đại học, trung học đó. Việc làm từ thiện, do tăng chúng mỗi chùa đứng ra chủ trì. Đặc biệt tín đồ Phật giáo Tích Lan, Miến Điện… đều có quan hệ mật thiết bảo trì giáo dục, kiêm từ thiện xã hội. Cho nên không thể nói Phật giáo không có lợi ích thật sự cho xã hội, mà chỉ có thể nói tín đồ Phật giáo Trung Quốc nên tự nhận ra mình chưa làm tròn trách nhiệm của người Phật tử, cần phải hết sức nỗ lực trên phương diện này, mới khế hợp với bổn ý cứu thế của Phật giáo, làm sống lại tinh thần cứu nhân độ thế của Phật giáo.
Thông thường nhân sĩ Trung Quốc, có rất nhiều nhận định sai lầm về Phật giáo, những gì nói hôm nay, đều là những vấn đề đang rất phổ biến. Hi vọng mọi người biết được những ý nghĩa này, làm một tín đồ Phật giáo có tín ngưỡng thuần chính, chí ít cũng có khả năng loại trừ một số tư tưởng sai lệch về Phật giáo, làm cho ý nghĩa thuần chính xưa nay của Phật giáo phát triển trở lại. Bằng không, xem bề ngoài thấy tín ngưỡng Phật giáo cực kì kiền thành, nhưng thực chất lại hàm chứa rất nhiều mầm móng sai lầm, tin mà thành ra hủy báng, như vậy chẳng trách sự chê cười, hủy báng của xã hội!