(giảng tại giảng đường Tuệ Nhật vào tết Trung Nguyên (rằm tháng 07 Âm lịch) năm Dân Quốc thứ 52 (1963))
Vào tháng bảy mỗi năm, Phật giáo Trung Quốc nhiệt liệt tổ chức pháp hội siêu độ cứu tế. Một là pháp hội Vu Lan Bồn: Lúc đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn còn tại thế, thầy Mục-kiền-liên tổ chức pháp hội cúng dường Phật và tăng vào ngày 15/07 Âm lịch để cứu độ mẹ thoát khỏi cảnh khổ của ngạ quỉ. Hai là pháp hội Địa Tạng: Ngày 30/07 Âm lịch, ngày Bồ-tát Địa Tạng thị hiện nhập Niết-bàn tại Trung Quốc. Bởi Bồ-tát Địa Tạng cứu độ chúng sinh trong địa ngục, cho nên vào tháng 07 có pháp hội Địa Tạng. Ngoài ra, đức Như Lai còn chỉ dạy cho thầy A-nan pháp môn Du-già Diệm Khẩu cứu tế ngạ quỉ trong địa ngục. Ba pháp hội này, trong tháng 07 tại Trung Quốc, có xu thế hợp lại làm một. Trong pháp hội lần này, tôi muốn nói sơ lược pháp môn của Bồ-tát Địa Tạng.
I. Sùng kính của tăng tục Trung Quốc
1. Tín ngưỡng nhân dân: Tại Trung Quốc, Bồ-tát Địa Tạng được chư tăng và cư sĩ Phật tử tôn trọng và kính ngưỡng rất nhiều. Bồ-tát Địa Tạng đề xướng tinh thần hiếu đạo, chú trọng siêu độ cứu tế cha mẹ. Người Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến hiếu đạo, tinh thần “thận chung truy viễn” (chung chỉ cha mẹ qua đời, viễn chỉ tổ tiên. Nghĩa là cha mẹ qua đời, cần phải hết sức lễ tiết, cúng bái phải hết mực kiền thành), rất gần gũi với pháp môn của Ngài, cho nên tại Trung Quốc, Bồ-tát Địa Tạng được tôn kính đặc biệt.
Trong kinh tuy nói đến rất nhiều vị đại Bồ-tát, nhưng người dân Trung Quốc vẫn quen thuộc nhất là Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Địa Tạng. Ở quê tôi, cứ đến ngày 30/07, nhà nào cũng đốt hương Địa Tạng để kỷ niệm Ngài. Thông thường người thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, mỗi khi tụng niệm “Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện Kinh”, hoặc viết sách để lại đời sau, hầu hết để báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của hai đấng sinh thành. Cho nên vào tháng 07 mỗi năm, ngoài pháp hội Vu Lan Bồn ra, còn có pháp hội Địa Tạng, tất cả các chùa chiền đều tổ chức hết sức rầm rộ. Qua đây thấy được Bồ-tát Địa Tạng đã trở thành tín ngưỡng rộng lớn trong dân gian. Chúng ta có niềm tin thanh tịnh vào ba ngôi báu, cần phải hiểu rõ công đức của Bồ-tát Địa Tạng như thế nào!
2. Đại đức kính ngưỡng: Bồ-tát Địa Tạng không chỉ được quần chúng nhân dân sùng bái, kính ngưỡng, mà chư đại đức xuất gia, cũng đặc biệt sùng bái Ngài, bây giờ tôi xin đơn cử hai vị Đại sư để minh chứng.
Cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, trong lịch sử Phật giáo có bốn vị Đại sư nổi tiếng tài đức, đó là Tử Bách, Liên Trì, Hám Sơn và Ngẫu Ích. Thầy Ngẫu Ích là vị thông suốt Thiền, Luật, Thiên Thai, Tịnh Độ, không có tông phái nào thầy không xiển dương. Thầy đặc biệt kính Bồ-tát Địa Tạng, từng lập nguyện trước Bồ-tát. Thầy thọ giới Tì-kheo rất sớm, nhưng lại phát nguyện trước Bồ-tát Địa Tạng, xin xả giới Tì-kheo làm vị Sa-di Bồ-tát.
Gần đây có Đại sư Hoằng Nhất, nhắc đến thầy không ai không biết, trước kia thầy vốn là nghệ thuật gia, sau đó đầu Phật xuất gia, chuyên tâm nghiên cứu giới luật, trở thành vị Đại sư duy nhất nghiên cứu luật tạng trong thời cận đại. Thầy cũng hết sức kính ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng. Năm nọ, thầy đến Hạ Môn, gặp cư sĩ Lư Thế Hầu, chích máu vẽ thánh tượng Bồ-tát Địa Tạng, sẵn dịp đó khuyến khích ông họa những sự tích thị hiện hóa độ của Bồ-tát Địa Tạng. Dưới mỗi bức họa, thầy đều ghi lời tựa tán thán, sau đó ấn tặng bức họa đó khắp nơi. Thầy thị hiện ở Ta-bà 62 năm, 24 hạ lạp.
Qua đây thấy được, hai vị Đại sư nổi tiếng kính ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng như thế nào. Thông thường người đời tín ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng, chỉ biết được đại nguyện “địa ngục chưa hết người thề không thành Phật, chúng sinh độ hết mới mong chứng Bồ-đề” của Ngài, nguyện vào địa ngục để cứu độ chúng sinh, mà đối với pháp môn lợi sinh của Ngài, ngược lại chẳng rõ. Thông qua việc tán thán, kính ngưỡng của chư đại đức tăng, có thể thấy được công đức không thể nghĩ bàn của Ngài. Hi vọng qua đây quí vị hiểu rõ được sự vĩ đại của Ngài, mục đích của lần giảng này chính là điểm này.
II. Bồ-tát Địa Tạng ở Cửu Hoa Sơn
Ở Trung Quốc có bốn ngọn núi lớn nổi tiếng, tức là đạo tràng thị hiện giáo hóa của bốn vị đại Bồ-tát. Núi Ngũ Đài Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi, núi Nga Mi Bồ-tát Phổ Hiền, núi Nam Hải Phổ Đà Bồ-tát Quán Thế Âm, núi Cửu Hoa Bồ-tát Địa Tạng. Bốn ngọn núi lớn nổi tiếng này, có rất nhiều chùa chiền, hầu như toàn thể đều lấy vị Bồ-tát của ngọn núi đó làm đối tượng tôn kính chính, như các chùa miếu ở Ngũ Đài sơn, đều tôn thờ thánh tượng Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi; các chùa miếu ở Phổ Đà sơn, đều tôn thờ thánh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm… Như vậy, bốn ngọn núi lớn nổi tiếng tức là bốn đạo tràng thị hiện hóa độ của bốn vị đại Bồ-tát, cũng trở thành thánh địa cho Phật tử trong và ngoài nước về lễ bái.
Cửu Hoa sơn ở huyện Thanh Dương tỉnh An Huy, ngọn núi này vốn tên Cửu Tử sơn, lúc Lí Bạch triều đại nhà Đường đến, thấy ngọn núi xinh đẹp như hoa, do đó sau này đổi thành Cửu Hoa sơn. Vào triều triều đại nhà Đường, Phật giáo Trung Quốc giống như mặt trời xinh đẹp giữa không trung, Phật giáo Trung Quốc truyền sang Nhật Bản, Hàn Quốc… Có rất nhiều vị tăng của Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước khác đến Trung Quốc cầu pháp, hoặc học Nho giáo, chính trị… Lúc đó Hàn Quốc chia làm ba nước nhỏ, tức Tân-la, Cao-câu-li và Bách-tế.
Vương tử nước Tân-la phát tâm xuất gia, tên Địa Tạng Tì-kheo, vào năm Trinh Quán thứ 4 vua Đường Thái Tông, đến Trung Quốc tham học. Lúc đầu đi tham vấn khắp nơi, hóa duyên nhiều năm, sau đó đến Cửu Hoa sơn tỉnh An Huy phía Nam Trung Quốc, thấy trong núi sâu có vùng đất trũng, do đó quyết định ở đây tinh tấn tu trì. Thời gian lâu sau, người dân đi núi phát hiện Ngài. Thấy vị hòa thượng, ở trong hang đá, y phục rách nát, cuộc sống hết sức thanh khổ. Hỏi ra mới biết Ngài là vương tử của nước Tân-la, đến Trung Quốc cầu pháp, các người địa chủ, giàu có của dòng họ Gia Cát cảm kích vô cùng, do đó phát tâm đề xướng, xây dựng chùa miếu cúng dường cho Ngài. Chủ Cửu Hoa sơn họ Mẫn, giàu có vô cùng. Muốn xây dựng chùa miếu phải hỏi xin Mẫn tiên sinh bố thí đất. Mẫn tiên sinh là người rất kính ngưỡng Tì-kheo Địa Tạng, ông thỉnh ý Ngài cần bao nhiêu đất, Địa Tạng đáp: “Chỉ cần cái bóng của chiếc ca-sa này là đủ rồi.” Lúc đó, Bồ-tát Địa Tạng dùng thần thông, ném ca-sa lên, đột nhiên ca-sa biến rộng ra, che hết ngọn Cửu Hoa sơn, do đó Mẫn tiên sinh dâng cúng toàn bộ ngọn Cửu Hoa. Mẫn tiên sinh phát tâm làm hộ pháp cho Ngài, con trai của ông cũng phát tâm theo Ngài xuất gia học đạo, với pháp danh Đạo Minh, làm thị giả cho Ngài. Ngày nay thấy bên cạnh thánh tượng Bồ-tát Địa Tạng có một người già và một vị Tì-kheo trẻ, chính là cha con Mẫn tiên sinh.
Sau khi xây dựng chùa tháp, học giả khắp nơi kéo về tham học rất đông, nước Tân-la cũng có nhiều người đến học tập, cúng dường. Cửu Hoa sơn cao mà lại ở xa, một khi chùa nhiều, tăng chúng đông, vấn đề sinh hoạt là điều đáng lo ngại, nấu cơm phải bỏ thêm đất trắng (đất này màu trắng mịn, tục gọi là quán âm thổ), đời sống thanh khổ của chư tăng có thể nghĩ ra được, cho nên lúc đó gọi các thầy là “chúng gầy mòn”. Đại chúng trong khắp các chùa chiền chỉ chuyên tâm một lòng cầu Phật pháp, hoàn toàn bỏ hết nhu cầu hưởng thụ vật chất. Tài đức của Tì-kheo Địa Tạng và đại chúng ảnh hưởng rất lớn ở Cửu Hoa Sơn, sau đó quốc vương Tân-la biết được, liền phái người đem lương thực qua cúng dường. Tì-kheo Địa Tạng luôn hướng dẫn đại chúng tinh tấn khổ hạnh thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, đến ngày 30/07 năm Khai Nguyên thứ 26 triều đại nhà Đường, Ngài thị hiện nhập Niết-bàn, trụ thế 99 năm. Mọi người đều nhận ra: Tì-kheo Địa Tạng chính là hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng, Ngài từ bi thị hiện đến Trung Quốc, cho nên mọi người đều xưng Tì-kheo Địa Tạng là Bồ-tát Địa Tạng, cửu Hoa Sơn trở thành đạo tràng của Bồ-tát Địa Tạng thị hiện hóa độ, trở thành một trong bốn ngọn núi nổi tiếng của Phật giáo Trung Quốc. Đặc biệt vào ngày 30/07 mỗi năm, tại Cửu Hoa sơn nhang đèn nghi ngút, hoa trái tràn đầy. Bồ-tát Địa Tạng tự Ngài có nhân duyên cảm ứng đặc thù, cho nên người dân mới đồng lòng tín ngưỡng như vậy.
III. Danh đức của Bồ-tát Địa Tạng
1. Giải thích danh nghĩa: Trong Phật pháp, Bồ-tát y theo đức lập tên, không giống như tên của người thường, chẳng liên quan gì đến tâm hạnh của thân cả. Trung Quốc đều biết rất rõ bốn vị đại Bồ-tát, đều có lời văn ca ngợi thánh hiệu của mỗi Ngài, như đại trí Văn-thù Sư-lợi, đại hạnh Phổ Hiền, đại bi Quán Thế Âm, đại nguyện Địa Tạng, có thể thấy nguyện lực của Bồ-tát Địa Tạng hết sức sâu rộng. Trong hệ thống kinh điển Đại thừa có “Đại Tập Kinh”, lúc đức Như Lai diễn nói giáo pháp giải thoát của Ngài, đại chúng 10 phương vân tập trong đại pháp hội, do đó mà có tên gọi. Trong đại pháp hội, chư Bồ-tát phần lớn lấy chữ “Tạng” làm tên, như Nhật Tạng, Nguyệt Tạng, Hư Không Tạng, Kim Cang Tạng, Tu Di Tạng, Địa Tạng… Sao gọi là Địa Tạng? Địa là đất nước, thế giới, cũng là “địa đại(1)”; Tạng nghĩa là chứa đựng, phục tàng(2), như mõ vàng, mõ bạch ngân, mõ than, mõ sắt… Chữ tạng trong Phật giáo, chỉ cho vật cất chứa trong kho. Hàm nghĩa của danh từ địa tạng, một mặt là nói từ đất; địa là một trong tứ đại (địa, thủy, hỏa và phong), có khả năng đảm đương tất cả, hết thảy núi non, vạn vật đều tồn tại trên đất. Điều ví dụ cho công đức của Bồ-tát, có khả năng làm hết thảy những việc khó làm cho chúng sinh. Đất cũng còn có nghĩa là “nương nhờ”, hết thảy cỏ cây, đều nương vào đất mà có, nhờ đất mà sinh trưởng. Dụ cho tất cả công đức tự lợi lợi tha, đều nương nơi vị Bồ-tát này mà tồn tại và phát triển. Bồ-tát Địa Tạng có khả năng hàm chứa hết thảy mọi công đức, nguồn gốc sản sinh ra hết thảy công đức, làm việc khó làm, cứu độ chúng sinh, cho nên có tên là Địa Tạng. Người ta thường gọi Ngài là Địa Tạng Vương, trong kinh chỉ có tên Địa Tạng không có chữ “Vương”, có lẽ Tì-kheo Địa Tạng là con của quốc vương Tân-la, do đó thêm chữ “Vương” để tôn xưng!!!???
2. Tán thán công đức: Địa Tạng của Cửu Hoa Sơn, chỉ là ứng hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng, bây giờ chúng ta cần phải tìm hiểu công đức chân thật của Ngài. Trong kinh Chiếm Sát ghi: “Từ khi phát tâm đến nay, đã trải qua vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn A-tăng-kì-kiếp, lâu xa như Tát-bà-nhã hải, công đức viên mãn, nhưng bởi vì thừa bản nguyện, phương tiện khéo léo hóa hiện khắp cả mười phương thế giới.” Theo như kinh văn ghi, từ khi Bồ-tát Địa Tạng phát tâm tu hành đến nay, đã rất lâu xa rồi đã vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn A-tăng-kì-kiếp. Công đức và trí tuệ so với đức Như Lai không hai không khác. Tát-bà-nhã chỉ cho nhất thiết trí Phật trí. Tát-bà-nhã hải, để hình dung cho đại giác ngộ, đại trí tuệ của Phật, sâu rộng giống như đại dương mênh mông. Bồ-tát Địa Tạng đã trải qua vô lượng vô biên kiếp tu hành, sớm đạt được biển trí tuệ của Phật, công đức viên mãn, tròn đầy, đáng ra thành Phật từ lâu lắm rồi. Nhưng Bồ-tát phát nguyện cần phải độ tận chúng sinh, cho nên giấu đi công đức chân thật của Ngài, dùng đại lực bổn nguyện, thần thông tự tại, thị hiện đến khắp nơi để tuyên giảng phương pháp giải thoát của Phật-đà, cứu độ người, trời. Trong kinh Lăng-già ghi: Có Bồ-tát tấm lòng đại bi, vĩnh viễn không chịu thành Phật. Đây chẳng phải do trình độ còn non kém, hoặc giải đãi trên lộ trình giác ngộ, mà do nguyện lực đại bi, phát nguyện độ tận hết thảy chúng sinh, cho nên công đức sánh ngang bằng Phật, mà không thị hiện thân Phật, vẫn hiện thân Bồ-tát, để độ thoát chúng sinh trong thế giới mười phương.
Công đức của Bồ-tát Địa Tạng bằng với Phật, cho nên kính tin công đức của Bồ-tát cũng đã không thể nghĩ bàn rồi. Như kinh Thập Luân quyển 1 ghi: “Đối với chư đại Bồ-tát, chí tâm quay về nương tựa trong trăm kiếp, xưng tán, tụng niệm thánh hiệu, lễ bái cúng dường, nguyện cầu, không bằng có người chỉ trong khoảng khắc, chí tâm quay về nương tựa, xưng tán tụng niệm thánh hiệu, lễ bái cúng dường Bồ-tát Địa Tạng, cầu nguyện điều gì, cũng đều được toại ý… Giống ngọc Như Ý, cũng như phục tàng.” Trong kinh cũng còn ghi: Nếu chí thành quay về nương tựa chư đại Bồ-tát, như Văn-thù Sư-lợi, Di-lặc…, xưng niệm thánh hiệu, lễ bái cúng dường, cầu nguyện, như cầu khỏe mạnh, sống lâu, giàu sang, hoặc cầu đoạn trừ phiền não… Cầu nguyện với chư đại Bồ-tát đó cả trăm kiếp, không bằng có người trong khoảng bữa ăn trong thời gian ngắn chí tâm quay về nương tựa Bồ-tát Địa Tạng, xưng niệm thánh hiệu, kiền thành kính lễ đại công đức của Ngài, nếu có nguyện cầu điều chi, cũng đều được viên mãn, đạt thành sở nguyện. Đây là hoằng dương pháp môn của Bồ-tát Địa Tạng, cho nên đặc biệt tán thán công đức thù thắng của Ngài. Giống như ngọc Như Ý, tức ngọc Ma-ni, bảo châu này có khả năng sinh ra tất cả mọi thứ, đáp ứng đầy đủ những gì mình mong cầu. Bi nguyện cứu độ của Bồ-tát Địa Tạng, cũng đáp ứng đầy đủ sở nguyện của chúng sinh. Như người nghèo khổ gặp kho báu, lập tức trở nên giàu sang, cái gì cũng có. Nếu chúng sinh nào gặp nhiều gian khổ, không được tự tại, thực tập pháp môn Địa Tạng, tự nhiên tất cả điều được vừa ý. Ngoài ra, theo kinh Địa Tạng Thập Luân ghi: Bồ-tát Địa Tạng giống như Bồ-tát Quán Thế Âm, thị hiện vô lượng thân ở khắp mười phương thế giới, diễn nói vô lượng pháp môn tu tập, đưa chúng sinh thoát khỏi vô lượng khổ nạn, đều được đầy đủ.
Bồ-tát Địa Tạng còn một công đức đặc thù nữa, được phát xuất từ tên gọi của Ngài. Kinh Thập Luân quyển 1 ghi: “Có khả năng giúp cho hết thảy cỏ, cây… hoa trái trên đất, đều được sinh trưởng.” Người dân ở quê, mong muốn của họ là mùa màng bội thu. Bồ-tát Địa Tạng có khả năng đáp ứng đầy đủ sở nguyện của chúng sinh, nuôi dưỡng tất cả hoa trái, cây cối, những gì sinh trưởng trên đất, đều được thu hoạch dồi dào. Kinh này được phiên dịch, do ít ai giảng dạy, cho nên đối với phương diện công đức đặc thù này của Bồ-tát Địa Tạng, ít người chú ý. Qua đây người nông dân nên hết sức cảm ơn, cầu nguyện Ngài.
Vả lại, Bồ-tát Địa Tạng còn trị lành bệnh tật. Kinh Tu-di Tạng ghi: “Thầy (Bồ-tát Địa Tạng) nên làm vị thầy thuốc lớn, thầy thuốc hay cho hết thảy chúng sinh. Vì sao? Vì thân thầy là thuốc lớn vi diệu.” Thuốc của ngày xưa, chủ yếu là cây cỏ trên đất và khoáng vật trong lòng đất, do đó công đức của Bồ-tát Địa Tạng, chẳng khác nào đức Phật Dược Sư. Không chỉ là đại dược vương, mà còn là đại diệu dược, có khả năng giúp tăng trưởng tinh thần, sức khỏe dồi dào, tẩy trừ bệnh tật cho chúng sinh. Nếu được thấy Bồ-tát, gần gũi Ngài, thì tất cả bệnh thân bệnh, tâm bệnh, sinh tử phiền não bệnh đều được tiêu trừ, tất cả công đức đều được đầy đủ.
Cuối cùng, chính là điều mà chúng ta đã biết rất rõ, theo kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện Công Đức ghi: “Địa ngục chưa hết người thề không thành Phật”. Theo kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, Bồ-tát Địa Tạng nguyện phải độ hết chúng sinh trong địa ngục. Chúng sinh chịu nhiều thống khổ nhất phải kể đến chúng sinh trong địa ngục, Bồ-tát phát đại nguyện, càng phải ra sức cứu độ những chúng sinh chịu nhiều thống khổ này.
IV. Công đức đặc thù của Bồ-tát Địa Tạng
1. Thị hiện vào thế giới dơ bẩn: Tất cả Bồ-tát, như Bồ-tát Quán Thế Âm, thị hiện cứu độ chúng sinh ở thế giới này, mang hình tướng của người cư sĩ tại gia, như tướng Bạch Y Đại Sĩ, hoặc thị hiện tướng người, trời…; Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi thị hiện tướng đồng tử; Bồ-tát Phổ Hiền cũng thị hiện tướng người cư sĩ tại gia. Duy chỉ có Bồ-tát Địa Tạng thị hiện tướng người xuất gia li dục. Vấn đề này, rất ít ai để ý đến. Vậy tại sao Bồ-tát Địa Tạng lại thị hiện tướng người xuất gia li dục? Để nói rõ vấn đề này, tôi xin lấy hai nghĩa “thị hiện vào thế giới dơ bẩn và thị hiện tướng Thanh văn” để nói. Tuy Bồ-tát Địa Tạng thị hiện khắp tất cả thế giới trong mười phương, độ thoát chúng sinh, nhưng Ngài đặc biệt từ bi thị hiện đến thế giới xấu xa, dơ bẩn này, độ chúng sinh tội khổ. Trong kinh Thập Luân quyển 1 ghi: “Bồ-tát Địa Tạng đã từ vô lượng vô số đại kiếp, ở trong thế giới ngũ trược, ác thế, không có Phật, cứu thoát chúng hữu tình(3).” Bồ-tát Địa Tạng phát tâm vô lượng vô biên kiếp, đều ở trong thế giới xấu ác cứu độ chúng sinh, thế giới càng xấu ác thì càng muốn vào cứu, chúng sinh càng khổ não càng muốn độ. Ngài còn thị hiện đến thế giới không có Phật pháp, nơi chúng sinh khổ nạn nhiều nhất, để làm lợi ích cho họ. Nguyện lực của chư Bồ-tát không giống nhau, đại nguyện từ bi của Bồ-tát Địa Tạng, chú trọng đến cứu độ chúng hữu tình trong thế giới xấu ác. Do đó, trong kinh Thập Luân quyển 1 ghi: “Con nay học theo đức Thế Tôn phát nguyện như vậy, vào thế giới dơ xấu đắc Vô Thượng Bồ-đề”. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện vào thế giới dơ xấu, lại còn thị hiện thành Phật ở thế giới này nữa. Bồ-tát Địa Tạng muốn theo đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni Phật, phát nguyện thành Phật trong thế giới dơ xấu này, cứu độ chúng sinh trong thế giới dơ xấu này, có thể thấy Ngài là vị chân chính kế thừa tinh thần của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai.
2. Thị hiện Thanh văn: Bồ-tát Địa Tạng là vị đại Bồ-tát, công đức ngang với Phật, đã đạt đến viên mãn cứu cánh. Trong pháp hội của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai ở thế giới Ta-bà, Ngài thị hiện tướng người xuất gia li dục, kinh Thập Luân quyển 1 ghi: “Dùng năng lực thần thông, thị hiện thân Thanh văn.” Thanh văn là gọi cho những vị xuất gia đệ tử Phật, đây là điểm đặc sắc của Bồ-tát Địa Tạng. Trong kinh điển Đại thừa nói: Một số thế giới thanh tịnh không có pháp Tiểu thừa, cũng không có chúng xuất gia li dục. Nhưng đức cha lành Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn thị hiện thành Phật ở thế giới xấu ác này, thị hiện tướng xuất gia li dục; Phật pháp ở cõi xấu ác có quan hệ mật thiết với chúng xuất gia li dục. Bồ-tát Địa Tạng noi gương đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, cũng thị hiện tướng xuất gia li dục, phát nguyện thành Phật ở thế giới xấu ác. Phật pháp trong thế giới xấu ác, có chúng xuất gia, có thể nói rất thích hợp với thời đại, mà còn có khuynh hướng thiện lành. Nhưng đứng về phương diện khác, ẩn chứa ý nghĩa đặc thù rất tích cực: Trong thế giới xấu ác này, chúng sinh từ sáng đến tối, nếu không tranh danh, thì cũng dành lợi, cuộc sống bận rộn, vội vàng, tìm cầu lợi ích cá nhân… xã hội đầy dẫy tội ác, đen tối. Trong thế giới đen tối ô uế, nên cho họ tia ánh sáng và niềm hi vọng, cho nên đức Phật Thích-ca Mâu-ni mới thị hiện vào thế giới này, xuất gia thành Phật. Kinh Thập Luân ghi: Tăng tướng của những bậc xuất trần, là tướng thanh tịnh mẫu mực của thế giới xấu ác. Trong xã hội không mấy lí tưởng này, xây dựng tăng đoàn thanh tịnh, làm cho mọi người nhìn vào, nghe thấy sự thanh tịnh của các thầy, giúp thân tâm của họ cũng được thanh tịnh theo. Phật pháp thích ứng với xã hội, muốn hoằng dương chính pháp trong thế giới xấu ác, cần phải có chúng xuất gia thanh tịnh li dục, hiện tướng giải thoát trang nghiêm thanh tịnh. Đức Thích-ca Mâu-ni Phật và Bồ-tát Địa Tạng, thị hiện tướng xuất gia trong thế giới xấu ác này, chính ý này. Xuất gia không có vật sở hữu riêng, lấy việc khất thực để duy trì thân giả tạm, hầu trưởng dưỡng pháp thân tuệ mạng, không vì hưởng thụ, cũng giảm thiểu những hậu quả rắc rối của vấn đề kinh tế đem lại. Thứ nữa, thị hiện hình tướng xuất gia, người nam không lấy vợ, người nữ không lấy chồng, không giống người thế tục, vì sợi dây ràng buộc vợ chồng phát sinh biết bao cuộc tranh chấp khổ đau. Tội ác vô biên của đời ác năm trược, chủ yếu do sự chiếm hữu nam nữ và kinh tế gây ra. Hình tướng xuất gia, tức đề xuất giải quyết khó khăn, thống khổ của thế giới xấu ác, cho đến thiết lập phương án giải thoát mọi ô nhiễm và ràng buộc thân tâm. Giả sử không đạt được mục đích như mong muốn, cũng đã biết được phương hướng chân chính giải thoát nỗi khổ niềm đau. Cho nên, Phật pháp trong thế giới xấu ác, đặc trọng tâm vẫn là chúng xuất gia li dục, mà cõi tịnh độ có thể không có chúng xuất gia, vì họ không còn đau khổ. Bồ-tát Địa Tạng thị hiện thân tướng xuất gia độ thoát chúng sinh trong thế giới này, có ý nghĩa hết sức đặc thù, cho nên chúng sinh trong thế giới xấu ác này, cảm thấy hết sức gần gũi với Bồ-tát Địa Tạng. Ngài không chỉ đề xướng hiếu đạo, độ thoát cha mẹ, mà còn thị hiện thân Thanh văn, cứu độ chúng sinh trong thế giới xấu ác, đây là nguyên nhân tại sao chư đại đức thời xưa đặc biệt kính ngưỡng Ngài.
V. Cứu độ chúng sinh không để đọa vào địa ngục
Bồ-tát Địa Tạng thị hiện cứu độ chúng sinh trong đời ác năm trược, chúng sinh khổ não nhất vẫn là chúng sinh trong địa ngục, cho nên sức bi nguyện của Ngài, mọi người đều biết, đó là cứu thoát chúng sinh trong đường địa ngục. Không ai không biết, Bồ-tát Địa Tạng cứu độ, giải thoát chúng sinh khổ não trong địa ngục. Nhưng, đây không phải cách duy nhất, cũng chẳng phải biện pháp lí tưởng nhất. Quan trọng và cấp bách nhất, triệt để nhất, vẫn là làm thế nào để chúng sinh vĩnh viễn không bị đọa vào địa ngục, mới là cách hay nhất để cứu độ chúng sinh trong địa ngục. Như bác sĩ giỏi, không phải trị liệu hoặc giải phẫu cứu bệnh nhân, mà phải dạy mọi người điều phục thân thể, duy trì sức khỏe, đề phòng bệnh tật. Chúng ta chỉ biết Bồ-tát Địa Tạng cứu độ chúng sinh trong địa ngục, mà không biết Ngài còn dốc hết sức giáo hóa chúng sinh, việc nào nên dừng, việc nào nên làm, mới có khả năng không đọa vào địa ngục, chứ đợi đến khi đã đọa vào địa ngục thọ khổ rồi, thì quá muộn (ngựa đến vực sâu thu cương đà quá trễ, thuyền ra giữa dòng vá lỗ chậm lắm thay!)
1. Đại tội nhất định phải bị đọa vào địa ngục Vô Gián: Tạo tội nghiệp gì bị đọa vào địa ngục? Bị đọa địa ngục khổ nhất ngục Vô Gián (Ấn Độ gọi A-tỳ địa ngục)? Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện nói, có rất nhiều tên gọi địa ngục. Địa ngục Bát Nhiệt, đâu đâu cũng có lửa lớn, giường sắt cột đồng; tầng thấp nhất là địa ngục A-tỳ. Gây tạo ác nghiệp cực trọng, vừa chết liền đọa ngay vào địa ngục; thời gian thọ khổ trong địa ngục, cũng không có giây phút gián đoạn, cho nên có tên Vô Gián địa ngục. Phật gia nói, tạo nghiệp lành sẽ được quả báo lành, gieo nhân ác ắt gặp quả ác, tạo ác nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục. Nhưng tạo nghiệp địa ngục, có phải nhất định phải đọa địa ngục không? Có những ác nghiệp đọa địa ngục, nhưng đời sau không nhất định phải đọa địa ngục. Ai ai cũng đều có nghiệp đọa địa ngục, là ác nghiệp đã tạo đời trước; sinh ra đời này, khi vừa chào đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, nói không chừng cũng có tạo tác nghiệp địa ngục, nhưng không nhất định phải đọa địa ngục. Nếu có nhân duyên công đức lành nhiều hơn ác nghiệp, có khi được sinh lên cõi trời, cõi người (nhưng không phải ác nghiệp không còn). Song, nếu đã tạo ác nghiệp cực trọng, trừ khi không phạm thêm, rủi phạm liền đọa, dù có tu tạo công đức hoặc sám hối, cũng đều không thể cứu được. Ví như có người mắc phải cơn bệnh hiểm nghèo, nhất định phải chết. Lại có một số bệnh xem ra cũng khá nghiêm trọng, nhưng nếu gặp được thầy hay thuốc tốt, vẫn còn tia hi vọng chữa lành, nhưng nếu gặp bệnh hiểm nghèo, không thể nào cứu thoát. Chúng sinh trong đời ác năm trược, cơ hội tạo nghiệp xấu rất nhiều, nguy hiểm đến tính mạng cũng không phải nhỏ. Cho nên cần phải phân biệt rõ nghiệp thiện ác, đầu tiên phải nhận thức rõ ràng nghiệp xấu đọa lạc, mới có thể chú ý không làm, tránh khổ đau ở chốn địa ngục.
Nghiệp xấu cực nặng đọa lạc vào địa ngục Vô Gián, trong kinh chia ra làm hai loại:
(1) Mười một loại nghiệp xấu: Trong kinh Thập Luân quyển 3 ghi: “Gây tạo ngũ Vô Gián và gần ngũ Vô Gián, bốn tội căn bản, cùng với hai loại người phỉ báng chính pháp, nghi ngại ba ngôi báu… Trong 11 tội này, chỉ cần phạm một, khi thân hoại dứt hơi, lập tức đọa ngay vào đại địa ngục Vô Gián”. Mười một loại trọng tội này, phân làm năm vô gián, bốn giới căn bản và phỉ báng chính pháp cùng nghi ngại ba ngôi báu ba tội. Năm tội vô gián, chỉ cần phạm một trong năm tội này, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục đại Vô Gián. Năm tội vô gián là: (a) Giết cha, (b) Giết mẹ. Cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ ta, từ khi còn tấm bé đến lúc trưởng thành, ân nặng như núi. Theo cách nói của thế gian, giết hại cha mẹ, rõ ràng hành vi của loài súc sinh; trong hình pháp tội chống trái, làm hại cha mẹ, cũng nặng nhất. (c) Giết bậc A-la-hán: Bậc thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà đạt được quả vị A-la-hán, là tứ quả (Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán) thánh nhân, nếu giết hại vị ấy, tội ác không chỗ dung thứ. (d) Làm thân Phật chảy máu: Lúc đức Thế Tôn còn tại thế, Đề-bà-đạt-đa muốn hại Ngài, cho nên lăn đá từ trên núi xuống, với ý tưởng điên rồ đè chết Ngài. Nhưng thần hộ pháp ngăn đá lại, đá lăn đến nửa chừng gặp những tảng đá khác ngăn lại, sự va chạm này làm cho tảng đá vỡ ra, một mảnh nhỏ bắn trúng cẳng chân của Ngài, chảy máu, do đó phạm vào tội làm thân Phật chảy máu (điều này chúng ta cũng có thể hiểu, hiện tại đức Phật đã thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng nếu cố ý đập chùa, phá tượng, hủy hoại kinh điển cũng đều phạm vào tội này cả). (e) Phá hòa hợp tăng: Ác ý phá hoại sự hòa hợp thanh tịnh của tăng đoàn, chia rẽ sự hòa hợp đó, sẽ tạo thành tội nặng vô gián. Ba tội sau, là trọng tội nhà Phật nói. Nói một cách thông thường, trong đời ác năm trược này, người phạm năm tội Vô gián không nhiều. Như người giết cha mẹ rất ít; làm cho thân Phật chảy máu, ngoài Đề-bà-đạt-đa ra, không thấy có người thứ hai (đây là không kể những người cố ý đập chùa, phá tượng…); người có khả năng phá sự hòa hợp thanh tịnh của tăng đoàn cũng không có mấy ai; còn giết bậc thánh A-la-hán, vì đời này thuộc vào thời kì mạt pháp, bậc thánh A-la-hán ít xuất hiện thế gian, cho nên tội giết A-la-hán tự nhiên ít có. Vì thế chỉ còn cận Vô gián bốn tội căn bản, là sát hại sinh vật, trộm cắp, tà dâm và nói dối, mới tạo thành tội địa ngục Vô Gián. Người xuất gia li dục, nếu phạm vào bốn tội căn bản này, liền bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn hòa hợp thanh tịnh, giống như cây bị chặt hết rễ, không thể sinh trưởng được nữa; như tử thi trong biển, biển không bao giờ dung chứa. Nếu phạm những lỗi không phải tội căn bản cận ngũ Vô gián, hoặc vừa phạm liền tức tốc kiền thành cầu khẩn sám hối với tăng chúng, vui vẻ chịu tăng thân phân xử. Tuy trong đời hiện tại, không thể liễu sinh tử, chứng quả thánh, nhưng vẫn có thể nương tựa vào tăng thân, gọi là học chung với chúng sa-di. Nếu như không biết sám hối, đương nhiên sẽ bị loại trừ ra khỏi tăng thân. Chúng tại gia hoặc xuất gia, nếu phạm những trọng tội căn bản của cận vô gián, vừa phạm liền đọa lạc, khó sám hối được. Trong đó sát sinh (Đức Phật là bậc không thể bị người khác giết, Ngài có đản sinh hoặc nhập Niết-bàn, cũng chỉ là thị hiện mà thôi), giết bậc Độc giác (Bích-chi Phật(4)) là nặng nhất của tội sát. Trộm cắp, trộm cắp vật của ba ngôi báu là nặng nhất, những vật của Phật, pháp và tăng, do mọi người phát tâm lành hiến cúng, nếu lấy sẽ mắc tội rất nặng. Tà dâm, cưỡng đoạt vị Tì-kheo-ni đã chứng quả A-la-hán là nặng nhất, vị Tì-kheo-ni đã tu hành chứng đắc A-la-hán, nếu ép buộc cưỡng bức, ắt sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián. Nói dối, nói lời không chân thật, thiếu chính niệm, nói thêm bớt những chuyện phải trái trong tăng đoàn, khiến đại chúng mất thanh tịnh, an lạc, tội này nặng nhất. Hết thảy công đức của thế gian, thanh tịnh giải thoát, đoạn tận sinh tử, thực tập hạnh Bồ-tát, cho đến thành Phật, đều nhờ ba ngôi báu mà được. Bốn tội nặng này, thì phá hoại ba ngôi báu, làm cho ba ngôi báu mất thanh tịnh, tổn hại rất lớn. Ngoài ra, loại thứ ba (nói dối) có hai loại, mới xem qua giống như chẳng quan trọng tí nào, kì thật nó vô cùng quan trọng. (1) phỉ báng chính pháp: Nếu ngoại đạo phỉ báng chính pháp, bởi họ không hiểu Phật pháp, nói năng hồ đồ, như rắn nuốt nhái xanh, mèo ăn chuột, tuy có tội nhưng không phạm trọng tội. Nếu đệ tử xuất gia thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, mà hủy hoại ngôi nhà chính pháp do cha mình gầy dựng nên, như trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử, tội nghiệp không gì sánh được. Chúng ta tin đức Thế Tôn, thực tập theo phương pháp giải thoát của Ngài, tuyệt đối không được hủy hoại Phật pháp. Có những pháp sư cư sĩ, vốn rất tôn trọng Phật pháp, tuyệt nhiên không có tâm hủy hoại chính pháp, nhưng có khi hủy hoại mà chính mình không hay biết. Trong Phật pháp có Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa (Đại thừa), nếu thực tập theo Thanh văn thừa, tán thán, xiển dương cái mình tu học, ngược lại nói Đại thừa chẳng phải Phật nói, đây chính là hủy hoại chính pháp. Còn ngược lại, người tu học Đại thừa, chê trách Tiểu thừa, cho rằng pháp đó không đáng học, cũng thuộc vào tội hủy hoại chính pháp. Nếu có người chỉ chú trọng đến trì giới, phế bỏ thiền định và tu tuệ; hoặc chú trọng thiền định, phế bỏ trì giới và tu tuệ; hoặc đặt nặng tu tuệ, phế bỏ trì giới và thiền định, có thấy biết sai lầm như vậy, khuyên người không nên học, đây đều là hủy hoại chính pháp. Lại có người, chỉ học và thực tập một pháp môn, rồi khinh chê pháp môn khác, cho rằng pháp môn đó thấp bé không đáng để học, nếu học cũng chẳng lợi ích gì, đều là phỉ báng chính pháp. Nếu chỉ nói một pháp môn đủ rồi, thế đức Như Lai dạy 84.000 pháp môn làm gì cơ chứ? Chú trọng một pháp môn, khinh chê các pháp môn khác, đưa chúng sinh vào kiến giải điên đảo, mê lầm, lạc vào đường tà, làm mù mắt chúng sinh, do đó tạo thành tội nặng ngục Vô Gián. (2) Nghi ngại ba ngôi báu: Ba ngôi báu Phật, pháp, tăng, nơi quay về nương tựa của đệ tử Phật. Đã quay về nương tựa ba ngôi báu, thọ trì giới pháp thanh tịnh, bất luận tại gia hay xuất gia, mà còn tin quỉ thần của đạo khác, cho chúng ngang hàng với Đức Phật, hoặc siêu việt hơn Phật; xem kinh sách của ngoại đạo, hay hơn ba tạng(5) 12 bộ kinh(6) của đức Như Lai; nương tựa những người ngoại đạo, không có niềm tin thanh tịnh với tăng chúng xuất gia li dục. Người này không tương ưng với Phật pháp, đều nghi ngại ba ngôi báu, biểu hiện bằng hành vi không có niềm tin thanh tịnh. Như có một số người không phân biệt được thần và Phật, đã quay về nương tựa ba ngôi báu mà cũng còn chủ trương luận điệu xằng bậy, cái gì là Tam giáo đồng nguyên, Ngũ giáo hợp nhất, cho rằng tất cả tôn giáo đều dạy người làm lành, đều có thể tín ngưỡng, đây là hành vi phản bội lí tưởng của mình. Nếu không rõ phải trái, không phân biệt được thần Phật như vậy, thuộc vào tội nặng vô gián vì nghi ngại ba ngôi báu. Giết người, trộm cắp, chưa nhất định đọa địa ngục, nhưng nếu phạm bất kì một trong 11 loại ác trên, ắt sẽ bị đọa ngay.
(2) Thập ác luân: Kinh Thập Luân quyển 4 ghi: “Trong thập ác luân, nếu phạm một hoặc tất cả, tất cả những điều lành đã tu tập được trước đó, đều bị phá tan hủy diệt hết…. khi chết nhất định sẽ đọa ngay vào địa ngục Vô Gián.” Luân nghĩa là phá tan. Có khả năng phá hoại hết thảy công đức căn lành, gọi là “ác luân”. Thập ác luân tức là 10 việc xấu, nếu phạm một, hoặc hết, mọi công đức lành tu tập được trước kia, đều bị phá hoại sạch, cho nên gọi là thập ác luân. Thập ác luân: Chê bai A-lan-nhã (chùa); chê bai thừa khác (có ba); trừng trợn, làm hại thầy Tì-kheo (có hai); xâm chiếm, đoạt lấy những vật thanh tịnh của chư tăng và Tì-kheo phá giới; làm hại pháp sư; xâm đoạt vật của các thầy; phá chùa đuổi tăng.
a. Chê bai A-lan-nhã: A-lan-nhã tiếng Ấn Độ, nghĩa là nơi vô sự, vắng lặng không có tranh đấu. Bậc xuất gia li dục ở nơi tịch tĩnh tu hạnh thanh tịnh, gọi A-lan-nhã Tì-kheo, người Trung Quốc gọi đóng cửa tu hành. Đức Phật nói Tì-kheo có ba hạng: Một, vị chuyên thực tập thiền định, tinh tấn thực tập chỉ quán, chân thật dụng công, để đạt đến mục đích đoạn trừ vọng tưởng chứng quả thánh. Hai, vị đọc tụng nghiên cứu, như đọc tụng nghiên cứu đại Tạng kinh… Ba, vị làm Phật sự, phát tâm phục vụ tăng chúng, làm những việc tu tạo phước lành, như xây chùa, làm giám viện, tri khách… Trong ba việc này, đương nhiên tu tập thiền định được đánh giá cao nhất. Tì-kheo thực tập thiền định, ở yên trong chùa, ít ra ngoài, chuyên tâm thực tập thiền định và tu tuệ, đoạn tận sinh tử, giải thoát mọi ràng buộc. Còn phát tâm phục vụ tăng chúng, chùa chiền, tuy tu tạo phước lành, nhưng không phải việc chính của người xuất gia li dục. Nghiên cứu học tập, cũng vì muốn dụng công tu tập, nhưng nếu chỉ quanh quẩn trên chữ nghĩa, kì thật chẳng phải lí tưởng của người xuất gia li dục chân chính. Cho nên, A-lan-nhã Tì-kheo, tinh tấn tư duy thiền định, vị này được đức Thế Tôn cho phép thọ nhận đồ cúng dường tốt.
Lúc đức Như Lai còn tại thế, tất cả thành viên trong tăng đoàn, đều phải theo chúng, nếu chân chính tu tập thiền định, trí tuệ, đến giai đoạn quan trọng, cho phép vị ấy được tạm thời tự do, nghĩa là không sinh hoạt theo chúng cũng được. Nếu có người thấy vậy mà hủy báng Tì-kheo A-lan-nhã, tức phạm vào một trong 10 ác luân. Vì đối với những bậc chân chính thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, đoạn tận sinh tử, không những không được làm chướng ngại, mà nên tạo duyên cho họ thành tựu đạo quả. Hủy báng, chướng ngại tu hành, là mục đích lớn nhất của những kẻ đang tâm phá hoại Phật giáo.
b. Chê bai thừa khác: Giáo pháp nhà Phật chia ra làm ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Người tu Thanh văn thừa, chê bai Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa; người tu Duyên giác thừa, chê bai Thanh văn thừa, Bồ-tát thừa; người tu Bồ-tát thừa, chê bai Thanh văn thừa, Duyên giác thừa. Ba hạng này, đều hủy hoại chính pháp, là ba loại của mười ác luân.
c. Trừng trợn, làm hại thầy Tì-kheo: Có hai. Một, trừng trợn, làm hại thầy Tì-kheo thật học, thật đức, thật tu, như mắng chửi vị ấy, đánh đập vị ấy, hoặc tìm cách khiến cho vị ấy mất tự do, an ninh, thêm nhiều loại hãm hại. Có một số Tì-kheo xấu, lôi kéo thế lực xấu ác ở địa phương, ẩn nấp dưới trướng của thầy trú trì, tìm cách, lợi dụng thế lực xấu ác, hãm hại, phá hoại những vị Tì-kheo có tài đức, hòng đạt được mục đích mình cần chiếm đoạt. Ngoài ra còn có một số người coi thường, oán hận, bức hiếp, hại vị Tì-kheo phá giới, cho rằng vị ấy không phải người xuất gia li dục chân chính, không đáng được tôn trọng. Tự bào chữa bách bức hãm hại vị Tì-kheo có đức, tuy nhiên là tạo nghiệp, nhưng trừng trợn, làm hại thầy Tì-kheo phá giới có quan hệ gì đâu? Không biết tuy vị Tì-kheo này phá giới, chỉ cần thầy ấy vẫn còn sống trong tăng đoàn, không đánh mất tư cách của người xuất gia, nếu mình trừng trợn, xem thường, hãm hại, cũng vẫn là nghiệp xấu như thường. Tôi xin dẫn chứng nước Thái Lan: Phật giáo ở Thái Lan là quốc giáo, những vị xuất gia không phải ai ai cũng thánh hiền. Ví như có thầy Tì-kheo đi ra ngoài phạm pháp, cảnh sát sẽ không bắt thầy ấy liền, bởi thầy ấy vẫn còn mặc ca-sa, vẫn còn thân phận Tì-kheo, cảnh sát sẽ theo thầy ấy về chùa, trình báo sự việc cho thầy trú trì, đợi tăng chúng quyết định, thủ tiêu tư cách Tì-kheo, thu lại y ca-sa của vị ấy rồi, lúc này cảnh sát mới bắt. Đây là bằng chứng sống của việc tôn kính Tì-kheo, đối với vị Tì-kheo phá giới, phạm pháp cũng không dám trừng trợn, xem thường, làm hại. Cho nên, nếu dùng thủ đoạn phi pháp để đối phó với thầy Tì-kheo phá giới, cũng là ác luân.
d. Xâm chiếm, đoạt lấy những vật thanh tịnh của chư tăng và Tì-kheo phá giới: Có một Tì-kheo xấu, xúi dục, tiếp tay cho thế lực xấu ác, thế mà thường xưng hộ pháp. Tiếp tay cho Tì-kheo xấu, tranh đoạt chùa chiền, tài vật… Mới xem qua giống như hộ trì người xuất gia, nhưng nếu tiếp tay cho Tì-kheo phá giới, quả thật đã tạo nghiệp xấu.
e. Làm hại pháp sư: Làm hại những vị pháp sư giảng kinh, thuyết pháp, hoằng pháp lợi sinh, bây giờ tại Trung Quốc đã được tự do, không còn phát sinh tình trạng này nữa. Trước kia khi dân trí con người còn kém, chấp thủ, nếu vị xuất gia nào đến hoằng pháp, nhất định sẽ bị hãm hại. Trước kia pháp sư Thiên Hi, đệ tử pháp sư Đế Nhàn, đến Quí Dương hoằng pháp, giảng kinh trong một ngôi chùa nhỏ ở Kiềm Linh. Pháp sư giảng rất hay, thính chúng đến nghe đông nghịt, do đó có những kẻ ghen ghét, cấu kết với quan phủ, vu khống thầy là hạng du dân, phải đuổi đi ngay, đây là ví dụ làm hại pháp sư.
g. Xâm đoạt vật của các thầy: Cướp đoạt tài vật của người xuất gia li dục, cũng là tội nặng địa ngục Vô Gián. Từ cuối đời nhà Thanh trở lại đây, tài sản chùa chiền tại Trung Quốc, không biết vô tình hay cố ý mà đều bị hiểu lầm cho là của công, cưỡng đoạt chiếm lấy, chẳng có gì người ta không làm được, luôn mượn danh nghĩa xây dựng trường học, xâm chiếm tài sản nhà chùa. Hoặc thấy chính quyền địa phương lơ là, liền lợi dụng quyền thế, chiếm đoạt chùa chiền. Có một số tuy nói lấy chùa xây dựng trường học, họ chỉ mượn cớ vậy thôi, nhưng trên thực tế đều lấy làm của riêng cả. Chùa là trung tâm tín ngưỡng của dân chúng, cần phải thanh tịnh trang nghiêm. Nếu quốc gia nào có hành vi phi đạo đức như thế, thì họ chẳng tôn trọng tự do tôn giáo.
Bất luận là giáo đường của các nước Âu Mỹ cũng tốt, đại tự viện của Nhật Bản cũng được, ngày thường thấy không có người, nhưng có khi không đủ chỗ chứa! Chùa chiền, thánh đường là trung tâm tín ngưỡng của nhân dân, nơi đây dạy con người hướng thượng hướng thiện, nếu cho là lãng phí, mặc tình chiếm đoạt, tức đã phạm một trong 10 ác luân. Nếu cứ mãi tạo nghiệp xấu như vậy, thế có thể đạt được kết quả tốt không?
h. Phá chùa đuổi tăng: Như một số người lợi dụng chức quyền phá chùa chiền, đánh đuổi chư tăng, đây là ác nghiệp vô cùng lớn.
Bảy loại này là thập ác luân, bất cứ làm một việc nào, tội báo đều lớn, chắc chắn phải đọa vào địa ngục Vô Gián. Mười một loại tội và mười ác luân, đều là nhân địa ngục. Ai cũng không muốn mình bị đọa vào địa ngục Vô Gián, nếu muốn không bị đọa vào đó, cần phải rõ nhân duyên đưa đến đọa lạc. Không gây tạo những nghiệp xấu này, nhất định sẽ không gặp quả báo xấu, không bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
2. Tôn kính thầy Tì-kheo chớ có quát mắng hủy hoại: Tại gia cư sĩ, phải cung kính bậc xuất gia li dục, không được quát mắng hủy hoại. Kinh Thập Luân quyển 3, đức Thế Tôn dạy: “Nếu các loài hữu tình, phát tâm xuất gia theo chính pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, khoác y ca-sa, vị ấy trì giới, không trì giới, thậm chí không có giới, nhưng tất cả trời, người, a-tu-la… chiếu theo luật pháp thế gian, còn không phép đánh đập… hoặc giết hại, huống gì chẳng phải luật pháp!” Nói đến người xuất gia, hễ phát tâm rời bỏ gia đình thế tục vào sống trong nhà tình thương của Phật pháp, cạo bỏ râu tóc, khoác y ca-sa, tức là xuất gia. Nhưng xuất gia cũng có mấy loại: Có vị trì giới, có vị phá giới, cũng có vị không có giới. Sao gọi không có giới? Tuy mang hình tướng xuất gia, nhưng nương tựa những người không chịu thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, không thọ giới, tùy tiện đắp y ca-sa, xem ra cũng là người xuất gia. Theo luật pháp của nhà nước, phạm tội gì, sẽ bị hình phạt đó. Nhưng hễ người xuất gia trì giới, phá giới hoặc không có giới, giả sử phạm pháp, cũng không được đánh đập, giam cầm, hoặc giết hại. Theo pháp luật chính đáng của nhà nước, còn không cho phép như vậy, huống gì hình phạt oan khuất không đúng pháp luật? Tóm lại, bất luận thế nào, chỉ cần mang hình tướng xuất gia, sống trong tăng đoàn, không cho phép tra tấn, bức hại theo pháp luật hoặc phi pháp của thế tục. Trong Phật pháp tự có cách xử lí, như đã nói ở trên, người xuất gia ở nước Thái Lan, nếu phạm pháp, do đại chúng xuất gia giải quyết, tước ca-sa, không cho sống trong tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp, sau đó mới thọ hình phạt của quốc pháp. Vì tôn kính ba ngôi báu, cho nên không được dùng pháp luật la mắng, tra tấn theo kiểu thế tục một cách tùy tiện được.
Tì-kheo trì giới thanh tịnh, đương nhiên không cho phép dùng phi pháp của thế tục khiển trách, phạt. Thế còn những thầy Tì-kheo phá giới, vì sao cũng không cho phép pháp luật hoặc phi pháp của thế tục khiển trách, phạt chứ? Vấn đề này mang hàm ý rất sâu xa. Trong kinh Thập Luân quyển 3, đức Như Lai nói: “Tì-kheo phá giới làm ác, tuy ẩn mình trong giới luật của ta, nhưng vị ấy chỉ là thây chết, song giới đức xuất gia vẫn còn lưu đôi chút.” Lại dạy tiếp: “Tuy người xuất gia phá giới hạnh, nhưng những loài hữu tình thấy được hình tướng của vị ấy, nên sinh khởi 10 loại tư duy thù thắng, sẽ thu hoạch được công đức quí báu: Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm thí, niệm nhẫn, niệm xuất gia, niệm viễn li, niệm trí tuệ, niệm căn lành xuất li sẵn có.” Theo ý nghĩa của kinh văn: Tì-kheo phá giới, giống như thây chết (đời này không có khả năng tu hành chứng quả), biển lớn Phật pháp, không thể dung nạp vị ấy, cho nên tốt hơn hãy cho ra khỏi tăng thân thanh tịnh. Nhưng Tì-kheo phạm giới làm xấu, trước kia đã từng có thời gian xuất gia thọ giới trong tăng đoàn; tuy hiện tại phá giới, song giới đức trước kia vẫn còn đôi chút. Tóm lại, Tì-kheo phá giới không phải là phá hoại hết thảy giới lành, vẫn còn một số công đức! Giống như chậu trước kia chứa đầy hương liệu, dẫu lấy hết hương liệu, song vẫn còn lưu lại chút ít mùi thơm. Tì-kheo phá giới, nhờ trước kia đã từng thọ giới, cho nên vẫn còn một số công đức, vẫn có khả năng làm cho những ai nhìn thấy sinh khởi 10 thứ tư duy thù thắng, tăng trưởng phước đức và trí tuệ. Nói đến đây, đại chúng hãy suy xét lại mình. Hiện tại chúng ta biết học Phật, hoặc giả trình độ Phật pháp đã tương đối khá, đã thọ trì năm nguyên tắc đạo đức hoặc Bồ-tát giới, nhưng lúc đầu nguyên nhân nào giúp chúng ta tin Phật? Đương nhiên, có một số gặp được chư đại đức, pháp sư mà sinh khởi tín tâm, quay về nương tựa Phật pháp; có một số lúc nhỏ tại quê hương, thấy những vị xuất gia không mấy nổi tiếng, nhưng nhờ đó dần dần kết pháp duyên với vị đó mà phát tâm thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà; hoặc giả thấy những vị xuất gia không ra gì phá giới hoặc không có giới, có lẽ ấn tượng lúc mới gặp không tốt lắm, nhưng lại giúp bạn sinh khởi cái nhìn tốt đẹp, biết có Phật, có pháp, có tăng, gieo trồng hạt giống tu tập hiện tại. Cho nên, tượng Phật hư vỡ, kinh sách mục nát, người xuất gia phá giới, đều có khả năng giúp chúng sinh có niềm tin thanh tịnh vào ba ngôi báu. Như vậy, Tì-kheo phá giới, vô giới, có khả năng giúp người ta sinh khởi công đức, tăng trưởng tư duy thù thắng. Như nhớ nghĩ công đức không thể nghĩ bàn của ba ngôi báu, nhớ nghĩ trì giới, bố thí, công đức nhẫn nhục, phát khởi tâm muốn xuất gia, xa rời phiền não, nghĩ đến tìm cầu trí tuệ, căn lành mình đã gieo trồng trước kia. Cho nên, đứng trên lập trường của người xuất gia, Tì-kheo phá giới, làm việc ác, nên trục xuất khỏi tăng đoàn; nhưng còn đứng về phương diện của tín chúng mà nói, vị ấy vẫn còn có khả năng giúp cho mọi người tăng trưởng công đức, làm ruộng phước cho chúng sinh. Tóm lại, thầy Tì-kheo giữ gìn giới pháp thanh tịnh, cố nhiên lí tưởng, càng sinh tâm sùng bái, kính ngưỡng; còn thầy phá giới, dù có biết, người tại gia cư sĩ cũng không được chửi mắng, hãm hại, giam cầm vị ấy, bởi hành vi này đang tạo tội nghiệp với tăng đoàn. Bồ-tát Địa Tạng thị hiện vào cõi đời ác năm trược này, hiện tướng xuất gia, làm công việc biểu hiện tinh thần từ bi cứu độ chúng sinh của chư vị Bồ-tát, cho mọi người biết thế nào là cạo bỏ râu tóc, khoát y ca-sa, sống trong đoàn thể của những bậc xuất trần thanh tịnh, là tốt hay xấu, nên giữ hình ảnh đẹp của người xuất gia sống đời tỉnh thức. Nếu thầy Tì-kheo nào đó đánh mất thân phận của người xuất gia, song vẫn còn sống trong tăng đoàn, chúng ta có thể không ca ngợi, cúng dường, hộ trì. Nhưng tuyệt đối không được dùng thủ đoạn để mắng nhiếc, hãm hại, dù trước mặt hay sau lưng. Bằng không, có ảnh hưởng không tốt đến Phật pháp, vô hình trung tạo thành trọng tội hủy hoại ba ngôi báu.
Bồ-tát Địa Tạng cứu độ chúng sinh đọa trong địa ngục, song vẫn đặc biệt chú trọng làm thế nào để chúng sinh không bị đọa vào địa ngục. Muốn không đọa địa ngục, có thể tổng quát làm tám chữ: “Tôn Kính Tam Bảo, Tin Sâu Nhân Quả.” Những chữ này người xuất gia sống đời tỉnh thức và tại gia đệ tử Phật nằm lòng, Bồ-tát Địa Tạng thị hiện tướng xuất gia vào thế giới dơ xấu hóa độ chúng sinh, cũng không ngoài điều này. Trong đó chú trọng nhất, đặc biệt làm thế nào tôn kính pháp, tôn kính tăng, mới có khả năng hộ trì Phật pháp, giữ mãi Phật pháp tồn tại trong thế gian cứu độ chúng sinh, làm cho họ được lợi ích và tắm trong dòng suối pháp an lành của đức Như Lai. Đức Thích-ca Mâu-ni Phật thị hiện thành Phật ở thế giới này, hiện tướng xuất gia, hi sinh xả bỏ nhà cửa, dòng họ, tài sản… tu hành thành bậc Chính Giác. Chúng đệ tử theo Ngài xuất gia tu tập, tạo thành tăng đoàn xuất gia của Phật giáo. Tăng là một trong ba ngôi báu, các thầy là những vị hết sức quan trọng trong Phật pháp, đức Như Lai dạy các thầy hãy hi sinh vinh hoa phú quí, hưởng thụ, để tâm vào việc hóa độ chúng sinh, do đó tổ chức chúng xuất gia, thành đoàn thể thanh tịnh lợi mình lợi người. Nếu nội bộ tăng đoàn hỗn loạn, cư sĩ tại gia không rõ tình hình nội bộ, như dùng mọi thủ đoạn bất chính, kết quả tăng thêm khốn khó cho tăng đoàn, làm cho tăng đoàn không hòa hợp, đánh tan năng lượng, sức mạnh cứu độ chúng sinh. Pháp môn kinh Địa Tạng chỉ rõ, bất luận là 11 tội nặng đọa địa ngục, hoặc 10 ác luân đọa địa ngục, vẫn chú trọng nhất là tội nặng phỉ báng chính pháp, bức hại người xuất gia, phỉ báng người thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, xâm chiếm tổn hại tài vật của chúng tăng… Bởi đây là pháp và tăng của tăng đoàn Phật giáo. Nếu ra sức phá hoại, Phật giáo ở thế gian mất đi tướng thanh tịnh của các sứ giả Như Lai, vậy có thể phát huy công dụng to lớn cứu độ chúng sinh không? Ví dụ như người yêu nước, không thể không trung thành với đất nước mình, càng không thể đi ra nước ngoài rao giảng nói quốc gia mình không tốt. Hành vi này chỉ làm cho đất nước hỗn loạn, càng làm cho quốc gia gặp nguy nan, y là tội nhân của nước nhà. Phật giáo cũng như vậy, người chân chính có niềm tin thanh tịnh đối với Phật giáo, nhưng nếu phá hoại Phật pháp và tăng đoàn, làm cho Phật pháp suy yếu, cũng là tội ác cực đại. Vấn đề này không chỉ có riêng kinh Địa Tạng nói, mà tất cả kinh điển Đại thừa đều nói đến. Bồ-tát Địa Tạng biết đời ác năm trược, thời đại mạt pháp, người xuất gia không giữ được lí tưởng của mình, còn cư sĩ tại gia không chịu tu phước tu tuệ, ngược lại có những việc làm hành vi không đúng với pháp, luật của ba ngôi báu. Điều này, không cần ngoại đạo phá hoại, không cần ngoại đạo hủy báng, tự mình đã làm mình sa sút rồi. Do đó Bồ-tát Địa Tạng mới thị hiện tướng xuất gia, trong pháp hội của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn hiển thị pháp môn này, cho chúng sinh biết được cái gì dễ đưa mình vào địa ngục nhất? Giúp đệ tử xuất gia và tại gia, đều phải đặc biệt chú ý điểm này, từ đó càng sinh tâm yêu kính và bảo hộ ba ngôi báu. Đây không chỉ chính mình không bị đọa lạc vào địa ngục, mà cũng còn chấn hưng được Phật giáo, những cái không thanh tịnh dần dần được thanh tịnh, càng ngày càng huy hoàng thêm.
3. Vị tăng vô tàm quí(7) (không có tàm quí) có nên thân cận không: Tăng chúng xuất gia, đức Như Lai phân ra làm mấy loại: Tuyệt vời nhất là vị có thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, chứng quả thánh; thứ đến là vị tuy chưa chứng quả thánh, song có khả năng giữ gìn giới pháp thanh tịnh, hiểu rõ Phật pháp một cách chân chính, đạt được chính kiến(8) trong Phật pháp. Ngoài ra còn có hai loại tăng không có lí tưởng:
a. Á dương tăng (như loài dê không biết thuyết pháp): Đệ tử Phật xuất gia li dục, cần phải học tập giới luật. Điều này không chỉ giữ những giới, như ý thức sát sinh, ý thức trộm cắp…mà còn bao quát cả luật và qui định của đoàn thể xuất gia thanh tịnh. Như phải đầy đủ tư cách gì mới có khả năng làm thầy người? Đầy đủ tư cách gì mới có thể trao truyền giới pháp? Thọ giới ra sao? Thọ giới có phương thức trình tự gì? Làm sao mới có khả năng tu tạo và làm trú trì chùa viện?...... Như vậy, mọi thứ Đức Phật đều có qui định hẳn hòi, rào trước đón sau hết sức kỹ càng. Người xuất gia, từ khi xuất gia, thọ giới, mỗi ngày đều phải ôm bát, khất thực, đắp y, ngủ nghỉ. Việc trong tăng đoàn, như mời trông coi công việc, hòa giải những vụ tranh chấp… đều có qui tắc và điều lệ nhất định. Chuyện trong tăng thân, theo cách nói thời bây giờ, là chế độ dân chủ. Như cử hành “yết-ma(9)” chính là “hội nghị”. Hội nghị có hợp pháp hay không, nghị quyết phải được mọi người thông qua, quyết định có hợp pháp hay không, tất cả chuyện này, người xuất gia phải biết rõ, nên gia tâm học tập. Nếu như thứ gì cũng không biết, đấy chính là “á dương tăng”.
b. Tăng không có tàm quí: Tức Tì-kheo phá giới. Giới luật có nặng nhẹ, ở đây chỉ nói phá đại giới. Những vị tăng không có tàm quí này, tại gia cư sĩ có nên thân cận không? Điều này có thể phân làm hai: Thứ nhất có thể thân cận, trong kinh Thập Luân quyển 5, đức Như Lai nói: “Tăng không có tàm quí, không trở thành pháp khí (người có khả năng tu hành Phật đạo), tôn ta làm thầy, hết sức kính ngưỡng hình tượng và xá-lợi của ta, ở trong tăng đoàn và phương pháp giải thoát của ta, yêu kính giới bậc thánh, hết lòng kính tin,…… chuyển luân thánh vương, còn không sánh kịp, huống gì các loài khác.” Vị tăng không có tàm quí này, không phải ngày nào cũng phá giới, mà do chút nông nổi, xúi dục của phiền não, hoàn cảnh cám dỗ mà phá giới. Phạm vào giới trọng gọi là phá giới, như cái chén có vết nứt. Người phá giới như vậy, không có khả năng tu hành Phật đạo, sau này dù tu hành như thế nào, tham thiền, niệm Phật, đời này cũng không thể chứng thánh, giải thoát. Nhưng không giống với những người phá giới thông thường khác, cho nên vẫn còn có thể thân cận. Bởi vì, tuy người ấy do chút nông nổi, xúi dục của phiền não mà phá giới, song vẫn còn đầy đủ lòng tin vào ba ngôi báu, hết sức tôn trọng, kính ngưỡng hình tượng, tháp xá-lợi của đức Thế Tôn. Đối trước thánh tượng một cách cực kì thanh tịnh, trang nghiêm, cung kính lễ bái cúng dường. Tuy bản thân người ấy phá giới, nhưng lại xưng tán tăng bảo, cũng hết mực tán thán kính ngưỡng thánh giới thanh tịnh. Vị tăng không có tàm quí như thế này, tuy tự thân không có khả năng tu hành Phật đạo, đời này không có khả năng tu chứng, nhưng vẫn còn khả năng tăng trưởng phước đức và trí tuệ. Đối với Phật giáo mà nói, vẫn có thể giúp chúng sinh gieo trồng công đức, sinh tâm kính ngưỡng, ở trong Phật pháp có được lợi ích. Do có niềm tin thanh tịnh vào ba ngôi báu, giới luật, cho nên bất luận ngoại đạo có công đức to lớn thế nào, chính như chuyển luân thánh vương của thế gian, cũng không thể bì kịp. Chuyển luân thánh vương là vua nhân từ của thế gian, dùng pháp môn “thập thiện(10) đạo đức” (10 đường hiền lành đạo đức) giáo hóa thế gian. Thế gian có được chuyển luân thánh vương, nhân dân sẽ được an lạc, song không thể hướng dẫn chúng sinh ra khỏi sinh tử. Nhưng Tì-kheo phá giới, lại có khả năng giúp chúng sinh có được chính kiến xuất thế vượt ra khỏi thế gian. Cho nên, đứng về phương diện tu chứng, tuy nhiên vị này không có khả năng tu hành Phật đạo; còn đứng về phương diện công đức hộ trì ba ngôi báu, lại có khả năng giúp tha nhân đạt được lợi ích trong Phật pháp. Vị tăng không có tàm quí này, có thể thân cận, trong đời mạt pháp muốn gặp được những vị như vậy thật không đơn giản chút nào.
Trong số những vị tăng không có tàm quí, cũng có vị không thể thân cận, trong kinh Thập Luân quyển 5 ghi: “Tăng không có tàm quí, phá hủy giới cấm, không thể trở thành pháp khí thánh hiền tam thừa(11), chấp chặt tà kiến, hủy báng thừa khác, hủy báng độ khác, không nên thân cận, thân cận ắt sẽ đọa lạc.” Vị tăng không có tàm quí này, không chỉ đã phá giới, mà đời này không có khả năng chứng quả thánh, được giải thoát. Vả lại còn bày ra cả đống lí lẽ, tự mình tà kiến, ngược lại phỉ báng người có chính kiến; tự mình không chịu thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà, ngược lại phỉ báng người thực tập phương pháp giải thoát của Phật-đà. Sinh khởi đại tà kiến, bác bỏ không nhân quả, không thiện ác, là loài sâu mọt, tên giặt ẩn núp trong tăng đoàn. Ngoài ra còn một số, hiểu biết sai lầm, giải thích xằng bậy, người tu học Tiểu thừa, phỉ báng Đại thừa không phải Phật nói; ngược lại người tu học Đại thừa kinh chê Tiểu thừa, cho rằng không đáng để học. Như trong lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ), chỉ thực tập một độ, phỉ báng các độ còn lại. Những vị tăng không có tàm quí như thế này, chẳng những không thành pháp khí, ngược lại phá hoại Phật pháp, vì thế không nên thân cận. Thân cận họ, sẽ huân tập theo họ, sinh khởi tà kiến, hủy hoại, phỉ báng thừa này, độ khác, nhất định khó tránh khỏi cảnh thiêu đốt dưới địa ngục!
4. Người giả tạo Đại thừa không nên thân cận: Có một số học giả Đại thừa, thường công khai tuyên dương Đại thừa của y: Nói mình thuộc phái Đại thừa; chỉ có kinh điển Đại thừa mới nghe, pháp Đại thừa mới học, còn Thanh văn, Duyên giác (Độc giác) đều là pháp Tiểu thừa, không đáng để tu học. Ngược lại, người này chấp Đại thừa phỉ báng Tiểu thừa. Cách nghĩ của người bình thường, Đại thừa tốt hơn Tiểu thừa, thế thì học Đại thừa không học Tiểu thừa, chuyên hoằng dương Đại thừa không hoằng dương Tiểu thừa, như vậy có sai lầm gì nào? Sai lầm này có thể nói rất lớn! Trong Thập Luân kinh quyển 6 ghi: “Đề xướng như vầy, ta là Đại thừa, là phái Đại thừa, duy chỉ thích nghe, thực tập, thọ trì Đại thừa, không thích pháp của Thanh văn, Độc giác thừa.” Lại ghi tiếp: “Người nói và người nghe, đều mang tội nặng, vùi lấp bên bờ đoạn diệt, rơi vào tưởng điên cuồng, chấp luận vô nhân. Sai lầm của những người này, là do chưa học pháp Thanh văn, Duyên giác thừa, mà cầu nghe, thực tập chính pháp Đại thừa thậm thâm vi diệu trước.” Loại thiên kiến(12) chấp Đại thừa phỉ báng Tiểu thừa này, đức Thế Tôn nói, hạng này phạm tội rất nặng; người nghe hạng này nói, cũng phạm tội nặng. Chủ yếu có ba lỗi: (1) Phát khởi cái thấy đoạn diệt, (2) Khởi tưởng điên đảo, (3) Chấp luận vô nhân. Cho nên Đại sư Thái Hư, xét duyệt, thống nhiếp tất cả Phật pháp, thành lập Ngũ thừa(13) cộng pháp(14), Tam thừa cộng pháp, mới nói Đại thừa bất cộng pháp(15). Nếu không có Ngũ thừa, Tam thừa cộng pháp, thì bất cộng Đại thừa pháp không có căn cứ. Cho nên Phật giáo Tây Tạng, Đại sư Khách-ba thuộc Tự tông, lấy cộng hạ sĩ đạo, cộng trung sĩ hạ, thượng sĩ đạo, thống nhiếp tất cả Phật pháp, nhờ đó Phật pháp mới phát triển rực rỡ một mạch, đến Thanh Hải, Mông Cổ, cho đến các vùng đất Đông Bắc… Điều này rất giống với pháp môn của Bồ-tát Địa Tạng; nếu không học Tiểu thừa mà tu học Đại thừa, tự mình thực hành, dạy người làm theo, thì mình và Phật giáo, đều đang đi vào ngã ba đường! Ví dụ kinh Đại thừa nói đến chữ “Không(16)”, nếu cho rằng tất cả đều không có; Thiền tông Phật giáo Đại thừa nói “không phải thiện, không phải ác”, nếu cho rằng không thiện không ác, thế thì đều sai lầm cả. Trong Phật pháp Tiểu thừa có thiện ác, nhân quả, sinh tử luân hồi, khổ não không? Vấn đề ở đâu? Tu học thế nào, chứng quả gì, mới có khả năng đạt được thanh tịnh rốt ráo vĩnh viễn? Mình phải nhận rõ một cách thiết thực như vậy, thấu suốt những vấn đề cơ bản này, mới có khả năng thể hội được phần nào nghĩa “Không” của Đại thừa. Bằng không, sẽ rơi vào ba lỗi đã nói trên. (1) Phát khởi cái thấy đoạn diệt, tức rơi vào “Không”. Nghe nói tất cả đều “Không”, cho rằng không có nhân quả duyên khởi, thế rồi xem nhân quả duyên khởi, thiện ác báo ứng, sinh tử luân hồi, cái gì cũng đều không có. Nếu như khởi cái thấy đoạn diệt không kiến, dù có nói tâm, nói tính, nói ngộ, đều chẳng phải là pháp Đại thừa chân chính. (2) Khởi tưởng điên cuồng: Nghe nói ai ai cũng đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật, rồi ảo tưởng cho mình là Phật, không được cuồng vọng điên đảo như vậy! Người học pháp Đại thừa, rất dễ rơi vào con đường tà này. Đây là điều sai lầm của rời xa học pháp Thanh văn, Duyên giác mà chỉ chấp vào học Đại thừa. (3) Luận vô nhân: Trong kinh điển Đại thừa, hoặc nói nhân duyên không thể được, nhân duyên không có tự tính, nhưng tuyệt đối không nói chẳng có nhân duyên. Song, có một số học giả, không rõ ý này bị rơi vào tà kiến tự nhiên vô nhân. Nhân quả là tông yếu của Phật pháp, không thể không tin tưởng và phân biệt rõ ràng. Hiện tại ở một số nơi, nhìn bề ngoài giống như Phật pháp cực kì hưng thịnh, nhưng rất ít bàn luận đến nhân quả ba đời, vô hình trung Phật pháp trở thành đạo đức học, pháp tu dưỡng của đời này. Những người biến chất này, đã đi rất xa căn bản của Phật pháp, đều là sai lầm mà Đại thừa đã chỉ ra, cũng có thể nói người này vốn đã không thành tựu pháp Đại thừa. Tóm lại, tất cả đây đều là tác dụng phụ của việc chưa học Thanh văn, Duyên giác, mà học ngay vào chính pháp vi diệu Đại thừa. Đại thừa giống như thức ăn có chất dinh dưỡng rất nhiều, người nào thân thể không bệnh tật, khỏe mạnh, ăn vào sẽ giúp thân thể cường tráng thêm, tinh thần sảng khoái gấp bội phần. Nhưng nếu bệnh tật vẫn chưa được trị khỏi mà tống thuốc bổ vào, nhất định sẽ sinh ra tác dụng phụ. Thanh văn, Duyên giác, ít muốn biết đủ, xem nhẹ lợi dưỡng cá nhân, ít việc ít nghiệp, chấp trì giới luật thanh tịnh, là tinh thần căn bản của Tiểu thừa. Đại thừa thì lại chú trọng lợi người, cần phải cứu độ thế gian, không ngại tích chứa nhiều tài vật, để làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng, nếu rời xa tinh thần thiểu dục tri túc (ít muốn biết đủ) mà hành pháp Đại thừa, ắt sẽ đi vào đường rẽ, vậy cùng với sự tham dục đa cầu của thế gian có phân biệt gì đâu? Nếu không có tinh thần xuất thế của Thanh văn, thì không thể có diệu pháp nhập thế của Đại thừa, Đại thừa sẽ trở thành pháp thế gian biến thế thông thường. Do đó, nếu rời xa Tiểu thừa, không có công đức của Thanh văn, ngược lại cho rằng mình là học giả Đại thừa, không cần học pháp Tiểu thừa, thế thì chưa hết bệnh mà uống thuốc bổ vào, ắt sẽ có hậu quả không tốt. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ghi: Đại thừa đạo như 500 do-tuần(17), Tiểu thừa đạo giống 300 do-tuần. 300 do-tuần chính là ở trong 500 do-tuần, chứ chẳng phải ngoài 500 do-tuần có 300 do-tuần nào khác. Cho nên, nếu không học hai thừa kia (Thanh văn và Duyên giác) mà chỉ học pháp Đại thừa, ắt thành sai lầm lớn.
Như vậy, không học pháp Tiểu thừa, đồng nghĩa không thể học pháp Đại thừa. Trong kinh Thập Luân quyển 6 nói rõ: “Không học pháp Tiểu thừa, vậy làm sao có thể học pháp Đại thừa?” “Bỏ thân mạng hộ trì giới luật, không gây đau khổ cho chúng sinh, tinh tấn cầu pháp Không, đấy chính là Đại thừa.” Lại cũng trong kinh này quyển 7 ghi: “Sao nói Nhất thừa? Vì xả bỏ Thanh văn, Độc giác thừa, nói pháp này cho người thanh tịnh.” Đây rõ ràng quở trách người chấp Đại thừa phỉ báng Tiểu thừa, giống như không biết chạy mà muốn nhảy. Pháp Đại thừa, một mặt chú trọng trì giới, trì giới không tiếc thân mạng, giữ gìn, hộ trì thánh giới, đầy đủ lòng từ bi với hết thảy chúng sinh, không giết hại, làm cho chúng sinh đau khổ, (giới nương vào từ bi mà thành lập; có khả năng chân thật trì giới, tức có khả năng phát khởi lòng từ bi); một mặt tinh tấn cầu pháp Không. Từ bi, trì giới, tinh tấn, cầu tất cả pháp Không, là đặc sắc của pháp Đại thừa. Pháp Không của tất cả không sinh không diệt (tức không tướng không tính), Bồ-tát Long Thọ nói: “Không có tâm tin giới, dù muốn đạt được pháp Không như thế nào đi chăng nữa, đều là tà Không”. Thấy được, cái thấy chính xác của chân Không(18), phải đặt trên nền móng tin sâu nhân quả, trì giới thanh tịnh… mới có thể đạt được. Mà tin sâu nhân quả, trì giới trong sạch, tinh tấn… đều là công đức chung của Thanh văn, Duyên giác. Cho nên học pháp Đại thừa, không được phỉ báng, chê Tiểu thừa, học tập hết thảy công đức lí luận cơ bản của Tiểu thừa. Nương tựa vào công đức của Tiểu thừa, thế thì khi học Đại thừa, cầu pháp Không, mới có thể chắc chắn được. Có một người cho rằng, trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói Nhất thừa(19) (Phật thừa), tất cả chúng sinh đều thành Phật; người trước kia thực tập theo pháp Tiểu thừa, nay chuyển qua Đại thừa, thấy học Đại thừa mau và tốt như vậy, hà tất gì phải học Tiểu thừa trở lại? Ở Hồng Kông có vị pháp sư, thầy có kiến giải hết sức riêng về kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Thầy cho rằng, “Khai quyền hiển thật(20)”, tức là khai trừ quyền pháp(21) để hiển lộ thật pháp(22), không cần học quyền pháp của Tiểu thừa, chỉ hiển lộ riêng cái chân thật của Nhất thừa. Điều này làm cho mọi người hiểu lầm, họ luôn nghĩ học Đại thừa Nhất thừa, không hơi đâu học Tiểu thừa. Nhưng vì sao đức Như Lai nói chỉ có Nhất thừa mới là cứu cánh, mới có thể thành Phật? Vì sao đến cuối cùng Ngài không nói Ba thừa mà nói Nhất thừa? Nên biết, Ngài nói Nhất thừa, chẳng phải không có mục đích, mà giúp chúng sinh thanh tịnh thân tâm, người có đầy đủ tư cách thọ nhận pháp Đại thừa mới nói như vậy. Không phải vừa mở đầu đức Thế Tôn đã nói chỉ có Nhất Phật thừa. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa ghi, Đức Phật xuất định (Tam-muội), liền tán thán trí tuệ thậm thâm vô lượng, không thể nghĩ bàn của chư Phật. Thầy Xá-lợi-phất thỉnh Ngài từ bi thuyết pháp, nhưng Ngài từ chối đến ba lần, song thầy Xá-lợi-phất vẫn kiên trì, kiền thành thỉnh đến ba lần, Ngài mới hứa khả tuyên thuyết. Lúc đó, 500 tăng thượng mạn(23) bỏ ra đi, Ngài nói “ra đi tốt lắm!” Lúc này đại chúng trong pháp hội, đều là căn tính Đại thừa, cho nên mới nói duy nhất Phật thừa. Đức Như Lai chưa từng dạy mọi người phải học Đại thừa hết, quả thật Ngài tùy theo căn cơ diễn nói phương pháp giải thoát của mình, dẫn nhập từ từ, đến giai đoạn này, thời cơ chín muồi, Ngài mới tuyên nói pháp nhất Đại thừa. Ngược lại, tuy Tiểu thừa không phải là cứu cánh, song có tính thích ứng, với những căn tính của chúng sinh bất đồng như thế này, thì cần phải nói những pháp như vậy. Đức Thế Tôn từ bi thị hiện vào đời xấu năm trược này, thành lập tăng đoàn thanh tịnh, thì cần phải có pháp Tiểu thừa, giúp chư tăng nghiêm cẩn, cuộc sống đạm bạc, không bị vướng bận bởi kinh tế, gia đình, bà con quyến thuộc... Xây dựng tăng đoàn thanh tịnh như pháp trong nhân gian, tức là tại thế gian đen tối, xuất hiện tia sáng hi vọng. Cho nên trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Thế Tôn, lúc đầu Ngài thấy pháp này thậm thâm không thể nói, nhưng nghĩ lại, chư Phật trong ba đời (trước kia, bây giờ và sau này), đều diễn nói pháp này trong đời ác năm trược, đều tùy thuận theo căn cơ của chúng sinh mà diễn nói phương pháp giải thoát, do đó Nhất Phật thừa mới phân ra làm ba. Nếu mới đầu mà nói ngay Nhất thừa, chúng sinh vẫn chưa được thanh tịnh, không đủ khả năng tiếp nhận, không những không đạt được công đức, ngược lại làm cho chúng tạo tội nghiệp hủy báng. Cho nên cần phải nói pháp Tiểu thừa trước, khi chúng sinh đã nắm vững và thực tập tốt những phương pháp căn bản như hành vi nghiêm cẩn, cuộc sống đạm bạc, sau đó mới có đủ khả năng huân tập và thọ nhận chính pháp vi diệu của Đại thừa. Pháp Tiểu thừa chủ yếu lấy chúng xuất gia li dục, đây là đoàn thể nồng cốt xây dựng ngôi nhà Phật pháp trong cõi đời xấu năm trược. Nếu tăng đoàn thanh tịnh không được thành lập, chắc chắn chính pháp sẽ bị cho vào kho tàng của sự quên lãng. Do đó, Bồ-tát Địa Tạng dùng thân Thanh văn thị hiện vào đời xấu năm trược này, cứu độ chúng sinh, giúp họ không bị đọa vào địa ngục. Mặc dầu nói nhiều như vậy, nhưng đại chúng cần chú ý hai điểm. Một, đối với thầy Tì-kheo phá giới, phải xử trí, đối phó như thế nào? Hai, phải hộ trì tăng đoàn thanh tịnh của những người li dục sống đời tỉnh thức như thế nào, mới có thể làm cho thế gian ba ngôi báu, được thanh tịnh trang nghiêm, ngọn đèn chính pháp không không bị lu mờ, dập tắt.
5. Thận trọng thụ nhận chức tước, tiền của chớ tạo nghiệp xấu ác: Thông thường người Phật tử tại gia có ảnh hưởng rất lớn đối với Phật pháp, đòi hỏi người đó phải là nhân vật quan trọng trong xã hội, đặc biệt những người làm lớn, gánh vác những việc hệ trọng của quốc gia. Họ có quyền thế, có danh tiếng, nếu có niềm tin thanh tịnh vào Phật pháp, giúp Phật giáo hoằng truyền phương pháp giải thoát của Phật-đà, tự nhiên sẽ có ảnh hưởng tốt đẹp. Nhưng nếu hộ trì Phật pháp mà không biết cách, hoặc không có niềm tin với Phật pháp, sinh ác kiến, thế thì ngược lại gây chướng ngại không nhỏ cho Phật pháp. Như trước kia đã nói, bức hại người xuất gia li dục, xâm đoạt tài vật của Tì-kheo thanh tịnh và Tì-kheo phá giới, hoặc xâm đoạt tài sản của ba ngôi báu... đây đều là việc làm của một số người có chức có quyền. Nếu người quá cùng khổ, đã không có khả năng hộ trì, thì cũng không có đủ sức phá hoại. Cho nên người giàu sang có quyền thế, hộ trì ba ngôi báu, cũng có khi phát sinh những vấn đề ngoài ý muốn, huống gì những người cố ý hủy hoại Phật pháp. Ở đây muốn nói phải hết sức cẩn thận khi thọ nhận quyền thế, tài vật, tránh tạo nghiệp xấu. Loại người này, trong kinh Thập Luân quyển 7 phân làm 4 hạng:
a. Phát nguyện không làm lớn, có chức quyền, để tránh tạo tội: Có một số vị phát nguyện không làm vua, quan, người có quyền thế... Sợ lúc vọng tưởng điên đảo, làm những việc phá hoại ba ngôi báu. Bởi những việc này, không phạm thì thôi, nhưng đã phạm ắt sẽ đọa địa ngục. Cho nên thà chấp nhận không có quyền thế, tiền của, tuy không có khả năng hộ trì Phật pháp, rộng chứa công đức, song không tạo tội nặng dẫn đến đọa lạc.
b. Nếu loài hữu tình đã đắc được pháp nhẫn… thì ta cho phép làm lớn, thọ nhận vinh hoa phú quí: Chúng sinh này đã đạt được vô sinh pháp nhẫn, tức đã trực ngộ thấy được chân lí. Có sự thể ngộ của trí tuệ, thế thì làm vua, đại thần, người có quyền thế, nhất định cũng không bao giờ làm gì phá hoại ba ngôi báu. Người này mới có đủ khả năng thọ nhận chức quyền cao quí, vinh hoa phú quí. Khổ não thông thường của chúng sinh, nếu không có tiền của và thế lực, chẳng thể làm việc lớn, chỉ có thể làm những công đức nho nhỏ cho ba ngôi báu. Giống như người Tiểu thừa, sợ phạm trọng tội, thà chấp nhận những khó khăn, không cần quyền quí. Pháp Đại thừa không như vậy, coi lợi ích của ba ngôi báu, chúng sinh trên hết. Như quả thật đã chứng ngộ pháp tính, dù có quyền thế như thế nào đi chăng nữa, chức cao, bổng lộc lớn, nhất định sẽ càng làm nhiều lợi ích cho chúng sinh, hộ trì ba ngôi báu hơn.
c. Nếu có loại hữu tình, chưa chứng đắc pháp nhẫn, có khả năng thực tập 10 pháp lành, cùng khuyến hóa chúng sinh thực hành, ta cũng cho phép. Lại nói: “Mười pháp lành… được gọi là Bồ-tát Ma-ha-tát. Tất cả cái xấu đều được giải trừ, hết thảy pháp lành tùy ý thành tựu, nhanh chóng đến được biển Niết-bàn rộng lớn”: Có một số chúng sinh, tuy chưa khai ngộ, nếu có khả năng thực hành 10 pháp lành, dạy mọi người cũng thực hành như vậy. Thế thì, dầu có làm vua, quan, tể tướng, người có quyền thế… cũng nhất quyết không phạm tội nặng hủy hoại ba ngôi báu. Mười điều lành:
Thân: Có ba nghiệp lành: Không sát sinh (bảo vệ mạng sống, ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra), không trộm cắp (tôn trọng quyền tư hữu, ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp và bất công xã hội gây ra), không tà dâm (bảo vệ tiết hạnh, ý thức được hạnh phúc gia đình dựa trên nền tảng thuỷ chung, hoà thuận, nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống tiết hạnh và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của người khác).
Miệng: Trên phương diện ngôn ngữ, có bốn nghiệp lành: Không nói dối (thực tập chính ngữ là lắng nghe, ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chính niệm gây ra, xin nguyện nói lời chính ngữ, học hạnh lắng nghe để dâng niềm vui cho người và giúp người bớt khổ), không nói lưỡi đôi chiều làm li gián người khác, không mắng chửi người, và không nói lời trau chuốt, khuyên người khác làm việc dâm loạn, trộm cắp...
Ý (tư tưởng): Có ba nghiệp lành: Không tham lam năm dục, không khởi sân hận, không tà kiến ngu si, tin sâu thiện ác nhân quả.
Mười điều lành như vậy, tự mình làm, dạy người làm, phẩm chất đạo đức của người này được đề cao, làm như pháp, tự nhiên sẽ không còn làm những chuyện hủy pháp phá tăng. Tuy chưa được khai ngộ, nếu thọ nhận giàu sang, phú quí mà vẫn có khả năng thực tập 10 điều lành, sẽ không còn tạo nghiệp nặng nữa. Trong các kinh điển Đại thừa đều nói, Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, lúc mới đầu đều thực tập 10 điều lành, chính là bắt đầu từ 10 nghiệp lành. Trong kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát-nhã, gọi là 10 điều thiện của Bồ-tát. Tự mình thực tập những điều đạo đức, dùng đạo đức dạy mọi người, lấy tâm Bồ-đề mười điều lành giáo hóa thế gian, tuy nhiên vị này vẫn chưa khai ngộ, song cũng có khả năng đi trên chính đạo Đại thừa. Mười điều lành Bồ-tát lợi mình lợi người này, thành tựu mười công đức lành, đoạn trừ hết thảy pháp ác, cho nên dù có nắm quyền vị, giàu sang phú quí, chắc chắn sẽ không tạo trọng tội phá hoại ba ngôi báu.
d. Chưa được pháp nhẫn, không thực hành 10 điều lành… Nhưng cũng có nhân duyên phương tiện khác để cứu… chỉ cần có tín tâm, tôn kính ba ngôi báu. “Không hủy hoại chính pháp, không gây phiền phức cho chư tăng, không chiếm đoạt tài vật của người xuất gia li dục, trong Ba thừa tương ưng với chính pháp, nghe xong phát tâm thực hành… khỏi đọa vào địa ngục Vô gián, cùng các đường xấu khác”: Nếu có người chưa được vô sinh pháp nhẫn, cũng không thực tập 10 điều lành, người này làm quốc vương, đại thần, có chức quyền, hình như vô cùng nguy hiểm. Nhưng có nhân duyên khác, có thể phương tiện cứu giúp, tuy làm lớn nhưng không tạo trọng tội, để khỏi phải đọa vào địa ngục chịu khổ. Người này có quyền thế, giàu sang, có tín tâm thanh tịnh và cung kính ba ngôi báu. Như trước đã nói Tì-kheo phá giới, tuy đã phá giới, nhưng tràn đầy tín tâm với Phật pháp, vẫn còn có công đức. Người cư sĩ tại gia này, tuy chưa khai ngộ, cũng không thực tập 10 điều lành, khó tránh những việc làm xấu ác, song nhờ cung kính ba ngôi báu, tràn đầy tín tâm, nhất định sẽ không tạo các trọng tội, như hủy hại chính pháp, não hại chư tăng, phá hoại ba ngôi báu, xâm đoạt tài vật của chúng tăng… Vật của ba ngôi báu, thuộc về ba ngôi báu, người xuất gia còn không thể tùy tiện lấy dùng, huống gì người cư sĩ tại gia dám lấy làm của riêng sao? Chỉ cần có đầy đủ tín tâm với ba ngôi báu, tôn trọng cung kính Ba thừa Phật pháp, tuy chưa khai ngộ hoặc thực tập 10 điều lành, nhưng vẫn có sức mạnh của công đức lành, để khống chế lại những tâm niệm, thế lực xấu ác, không tạo tội nặng, tránh xa địa ngục và các đường ác.
Điều này, chỉ nói cho những Phật tử tại gia có quyền thế, giàu sang phú quí thông thường. Chứ có khả năng ngộ chứng vô sinh pháp nhẫn, đương nhiên quá lí tưởng, nếu không có khả năng, cũng nên thực tập 10 điều lành; còn không nữa, cũng cần phải có đầy đủ tín tâm thanh tịnh với ba ngôi báu. Được như vậy mới tránh tội ngũ vô gián, mười ác luân… đã nói phía trước. Đời này được gia đình sung túc, có vị trí trong xã hội, nên làm nhiều việc lành cho Phật pháp, tăng trưởng công đức hộ trì ba ngôi báu.
6. Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện rộng độ khắp tất cả: Từ vô lượng kiếp đến nay, Bồ-tát Địa Tạng đều phát nguyện cứu độ chúng sinh, không để chúng đọa vào địa ngục. Ngài phát nguyện lớn trước đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni Phật: “Vào lúc cõi đời xấu ác năm trược không có Phật, chúng sinh trong đó bị lửa phiền não thiêu đốt dữ dội, nhiễm theo thói xấu, ngu si điên đảo, khó có thể hóa độ… căn lành nhỏ nhiệm, không có tín tâm… những người như thế, vì chút cặn danh bã lợi, giúp đỡ bọn phá giới làm xấu, huân tập cái xấu của bạn bè, nhất định sẽ bị rơi vào địa ngục Vô Gián. Con nguyện đến nơi đó, dùng pháp vương của đức Phật Thế Tôn Như Lai, lấy pháp vị cam lộ vô thượng vi diệu làm lợi ích an lạc cho hết thảy chúng hữu tình, phương tiện giáo hóa, đều được tế độ… giúp chúng khỏi rơi vào địa ngục Vô Gián” (kinh Thập Luân quyển 4). Lúc đức Thế Tôn còn tại thế, oai đức của Ngài lớn, căn cơ chúng sinh lanh lợi. Sau khi Ngài thị hiện diệt độ, chúng sinh bị lửa phiền não thiêu đốt dữ dội, làm nhiều việc xấu, ngu si độc ác, không phân biệt phải trái tốt xấu, nham hiểm hung hãn, cho nên kinh nói: “Chúng sinh trong đời xấu ác năm trược, cứng đầu khó độ”. Những chúng sinh này thường vì chút cặn danh bã lợi, hợp tác với Tì-kheo xấu. Phật pháp tại thế gian, là đạo tràng tốt đẹp, thầy Tì-kheo có đức chắc chắn sẽ có người hộ trì, ví như những đạo tràng niệm Phật, tham thiền, giảng kinh, có vị thầy tài đức lãnh đạo, cũng có người hộ pháp. Song có một số danh lam thắng cảnh, chùa cổ hoặc mới xây dựng, bất luận có phải bậc cao tăng đại đức trú trì hay không, tài sản, vật trong chùa nhiều, cũng cần có người hộ trì. Trước kia chùa chiền ở Đại Lục (Trung Quốc), muốn duy trì, sinh hoạt được tốt, mỗi khi có thế lực lôi kéo thân sĩ địa phương, liền đến nghinh đón tặng quà, nhờ họ hộ trì cho mình. Cư sĩ tại gia, ít nhiều cũng có chút niềm tin với ba ngôi báu, nhưng có một số người xuất gia không tiến bộ, mời thỉnh tặng quà cho người có quyền thế, xin họ giúp đỡ, dần dần trở thành thói quen. Cũng khó tránh được một số thân sĩ địa phương, không phân tốt xấu đen trắng, chỉ cần tặng quà, có phong bì liền đến giúp đỡ. Đây chẳng những tạo thành phong tục xấu, ngược lại làm cho chư Tì-kheo có đức không còn đất đứng. Điều này, không những không hộ trì Phật giáo, ngược lại tăng thêm không ít khó khăn cho tăng chúng Phật giáo. Người yêu kính và hộ trì Phật pháp chân chính, lúc nào cũng muốn ba ngôi báu thanh tịnh, thấy những chuyện tặng quà, phong bì lòng đau xót, cho nên Đại sư Thái Hư hết sức cảm kích và tán thán những người có tâm hộ pháp này! Bồ-tát Địa Tạng ở trong pháp hội của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, thị hiện tướng xuất gia, thành lập tăng đoàn thanh tịnh làm trung tâm của Phật giáo. Theo tinh thần cơ bản này, Ngài phát nguyện, dùng phương tiện khéo léo dẫn dụ, đưa chúng sinh trong đời xấu ác ra khỏi đọa lạc. Đây chẳng cần nhất định phải hiển thị thần thông, để đưa chúng sinh ra khỏi chốn địa ngục, mà là diễn nói đạo lí chân chính, giúp họ hiểu rõ, đặc biệt giáo hóa những người có quyền thế, tài sản, thay vì tạo tội để một mai chịu khổ trong địa ngục, hãy tin tưởng phụng trì Phật pháp, không tạo tội phá hoại ba ngôi báu. Đức Thế Tôn nói pháp môn này, lấy kinh Địa Tạng Thập Luân làm gốc, giúp chúng sinh trong đời ác năm trược, không đọa vào địa ngục.
VI. Cứu độ chúng sinh đã đọa lạc
Pháp môn của Bồ-tát Địa Tạng, đặc biệt chú trọng làm thế nào mới có khả năng giúp chúng sinh không bị đọa vào đường xấu. Không tạo trọng tội, không đọa lạc vào địa ngục, đương nhiên quá tốt. Nhưng đã tạo ác nghiệp phải đọa vào địa ngục, lúc mạng chung ắt sẽ rơi vào địa ngục, làm thế nào mới có thể cứu giúp giờ phút quan trọng đó của y? Nếu như đã đọa vào địa ngục rồi, lại cứu độ như thế nào? Lúc người bị bệnh nặng sắp chết, hoặc chết rồi, lúc đó ác nghiệp đã tạo, nghiệp lành không thể làm kịp, sẽ cứu độ như thế nào? Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, đặc biệt chú trọng nói đến pháp môn này.
Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện, cần phải cứu chúng sinh khổ nạn ác thú. Chúng sinh trong đường ác, trong đó chúng sinh ở địa ngục là khổ nhất, đối với chúng sinh khổ nạn đó, Bồ-tát đặc biệt từ bi thương xót, cho nên đặc biệt chú trọng cứu độ ở địa ngục. Bồ-tát Địa Tạng trong pháp hội của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, thọ nhận lời phó chúc của Phật. Vào thời đại mạt pháp sau khi đức Như Lai thị hiện Niết-bàn, căn tính chúng sinh chậm lụt, phiền não sâu nặng, người tu hành chứng ngộ ít, đọa lạc lại nhiều. Trong vô biên kiếp Bồ-tát Địa Tạng đã phát đại nguyện, do đó Ngài đứng ra xin gánh vác trọng trách này, nguyện cứu độ chúng sinh trong thế giới dơ xấu, đây là việc rất khó và hi hữu! Trong này có một vấn đề, Bồ-tát luôn hi vọng tất cả chúng sinh, đều biết hướng thượng hướng thiện, không bị đọa lạc. Chúng sinh cũng hi vọng cha mẹ, lục thân quyến thuộc của mình đều hướng thiện, không đọa vào đường ác. Làm nghiệp gì để được quả gì, đương nhiên làm thiện có quả báo thiện, làm ác sẽ gặp quả báo ác, tự làm tự chịu, gậy ông đập lưng ông. Nhưng chúng ta nỡ nào ngồi nhìn người sắp bị đọa địa ngục đó lại là thân thuộc có quan hệ huyết thống với mình sao? Bản thân mình thành bậc hiền, thánh, mà cha mẹ tổ tiên đang chịu khổ trong địa ngục, thử hỏi tâm chúng ta có yên không? Phật pháp không ích kỷ cho một mình ta được lợi lạc, không phải lãng quên ân đức của cha mẹ, lục thân quyến thuộc, cho nên đối với những người chưa đọa địa ngục, cần phải dùng phương tiện cứu độ họ; người đã đọa lạc, cũng cần phải dùng phương tiện cứu vớt. Giống như người phạm pháp, tuy bị giam nhốt trong ngục tù, nhưng cũng cần phải tìm cách cứu y, không nên nói chịu sự trừng phạt của pháp luật cho đáng kiếp. Đặc biệt những người có quan hệ với chúng ta, càng phải khẩn thiết nghĩ cách cứu độ, đây là nhân tính cần phải có trong mỗi người, và phải thực hiện nhân tính đó bằng việc làm thiết thực. Người Trung Quốc đối với tổ tiên, luôn nghĩ đến hiếu đạo “thận chung truy viễn” (chung chỉ cha mẹ qua đời, viễn chỉ tổ tiên. Nghĩa là cha mẹ qua đời, cần phải hết sức lễ tiết, cúng bái phải hết mực kiền thành). Vào những ngày lễ tết húy kị, đều lễ bái cúng tế, biểu thị tấm lòng của con cháu không quên ân đức tổ tiên. Dân tộc Trung Quốc có truyền thống đồng cảm với mọi người, cho đến người đã chết, mỗi khi ăn cơm, mặc áo, đều nghĩ đến cha mẹ, do đó luôn dùng cơm để cúng bái, đốt áo quần cho ông bà. Sau đó dần dần dùng giấy để đốt thay cho áo quần, đây là hành động hiếu thảo để tưởng nhớ ông bà; tuy dụng ý tốt, nhưng cách làm chẳng lí tưởng. Các tôn giáo ở Tây phương, vốn chẳng có suy nghĩ gì về vấn đề này, tợ như người chết là hết, giống người làm ác, chẳng có cách nào cứu họ cả. Phật giáo không giống Nho gia, không dừng lại ở hiếu thảo cúng tế tổ tiên, “thận chung truy viễn”, mà cần phải ra sức cứu độ người đã chết đọa lạc, còn người chưa chết phải giáo hóa thế nào để không bị đọa lạc. Tôn giáo là phải thích hợp với yêu cầu nhân tính, cho nên trong sự phát triển của thần giáo ở Tây phương, Thiên Chúa giáo cũng có tư tưởng “luyện ngục”, giáo nghĩa làm “lễ mét” cho người chết, để tiêu trừ tội ác vong nhân. Điều này vốn phát triển theo nhân tính; nhưng đối với cách cứu độ, Phật pháp mới có khả năng đáp ứng đầy đủ.
1. Nguyện xưa của Bồ-tát vĩnh viễn cứu vớt: Lúc Bồ-tát Địa Tạng phát tâm Bồ-đề, có phát nguyện thế này: “Con nay cho đến tận đời vị lai không thể tính đếm số kiếp, bày nhiều phương tiện, độ thoát chúng sinh tội khổ trong sáu đường, khi nào chúng sinh được giải thoát hết, con mới thành Phật.” (Bổn Nguyện kinh quyển thượng). Phát tâm Bồ-đề, học Bồ-tát đạo, cũng phải tùy nhân duyên phát tâm tu hành. Bồ-tát Địa Tạng thấy chúng sinh thọ khổ trong sáu đường, thấy cha mẹ thọ khổ, liền phát nguyện lớn độ tận hết thảy chúng sinh, vĩnh viễn rời xa thống khổ. Nguyện này, không phải tính bằng ngày, bằng tháng, bằng năm, đời này hoặc đời sau, mà là mãi đến đời vị lai. Chủ yếu cứu vớt chúng sinh trong ba đường ác, không để chúng phải thọ khổ não nữa. Nhưng căn tính của chúng sinh không giống nhau, trình độ trí tuệ không giống nhau, tâm cảnh không giống nhau, nếu chỉ dùng một phương pháp; để cứu độ, nhất định không thành công, cho nên cần phải bày ra rất nhiều phương tiện, đưa tất cả chúng sinh đều thành Phật, sau đó mình mới thành Phật. Cho nên nói: “Chưa hết chúng sinh, thệ không thành Phật.” Chúng sinh vô tận, địa ngục cũng khó độ hết, như vậy cũng khó viên thành Phật quả; thế là Ngải trở thành vị Bồ-tát đại từ bi không thành Phật. Trong quá trình phát tâm tu hành của Bồ-tát, đặc biệt chú trọng đến đại bi, chẳng vì lợi ích cá nhân gấp rút thành Phật, nguyện bao giờ mọi người mọi loài thành Phật cả, mình mới thành Chính giác. Từ vô lượng kiếp đến nay, Bồ-tát Địa Tạng đều phát đại nguyện như vậy. Ngài phát đại nguyện bày nhiều phương tiện, thà mình không thành Phật, chỉ chuyên tâm vào việc độ chúng sinh, giúp chúng giải thoát hết. Bi nguyện to lớn, tinh thần vĩ đại của Bồ-tát Địa Tạng, đáng để chúng ta sùng bái kính ngưỡng biết chừng nào!
Đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni từng tán thán công đức của Ngài: “Nghe tên Bồ-tát Địa Tạng, hoặc tán thán, hoặc chiêm lễ, hoặc xưng danh, hoặc cúng dường, cho đến vẽ đắp khắc hình tượng của Ngài, người ấy được 100 lần sinh về cõi trời thứ 33, vĩnh viễn không đọa vào đường ác.” (Bổn Nguyện kinh quyển thượng) “Vượt qua 30 kiếp tội, sinh về cõi trời không đọa đường ác, không thọ thân nữ, nếu thọ thì sẽ được tôn quí, trang nghiêm, quỉ thần hộ vệ.” (Bổn Nguyện kinh quyển hạ). Do Bồ-tát Địa Tạng có công đức không thể nghĩ bàn, cho nên tán thán, lễ bái... Ngài sẽ có được công đức to lớn như vậy. Đức Thế Tôn nói: “Trải qua trăm kiếp xưng tán công đức của Bồ-tát Văn-thù Sư-lợi và chư đại Bồ-tát khác, không bằng cung kính xưng niệm Bồ-tát Địa Tạng trong khoảng bữa ăn. Bởi Ngài đặc biệt chú trọng đến bi nguyện của mình, chỉ cần nghe qua thánh hiệu của Ngài chúng ta đã biết được công đức như thế nào rồi. Nghe thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, biết được sự tích trong quá khứ của Ngài, nên dùng mọi phương pháp có thể để xưng dương tán thán Ngài. Trước kia, ở Ấn Độ có dùng kệ để tán thán công đức của chư Phật, Bồ-tát. Hiện tại hình thức phương pháp ca ngợi có rất nhiều, chúng ta có thể dùng văn chương, thơ, nhạc… Lúc thấy hình tượng Bồ-tát, nên cung kính chiêm ngưỡng lễ bái; hoặc xưng thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng; hoặc dùng hương hoa cúng dường; hoặc khắc vẽ hình tượng Bồ-tát, có thể khắc tượng Bồ-tát bằng gỗ, tạc bằng đá, đồng, sắt, vàng…, hoặc đắp, nặn bằng đất, xi măng… bất luận bằng vật liệu gì, chỉ cần là thánh tượng Bồ-tát, lễ bái cung kính, công đức rất lớn, được quả báo lành trăm đời sinh về cõi trời cõi người. Trong kinh nói rất nhiều về công đức cúng dường, xưng tán, vẽ đắp, lễ bái… Bồ-tát Địa Tạng: (1) Có khả năng diệt 30 kiếp trọng tội, (2) Sau khi chết, được sinh về cõi trời, (3) Không thọ thân người nữ: Người nữ, thật ra chẳng có gì xấu, chỉ là sinh lí không giống với nam, tuy nói nam nữ bình đẳng, song trên thể chất, vẫn còn kém rất xa nam giới. Nếu xưng niệm thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, có thể không còn chịu thân nữ nữa. Nếu ai phát nguyện thọ lại thân nữ, nhất định đời sau sẽ được thân nữ đoan nghiêm tôn quí, hiền thục lương thiện, làm người vợ hiền mẹ tốt. Giống như phu nhân Ma-da, thị hiện làm mẹ của thái tử Tất-đạt-đa (đức Phật Thích-ca Mâu-ni sau này), (4) Đời này được quỉ thần hộ vệ. Quỉ thần tà ác trong thế gian rất nhiều, có số nhiễu loạn người, nhưng đối với người có đức, chúng quỉ thần tốt sẽ ủng hộ bảo vệ, được bình an.
2. Lúc lâm chung được cứu vớt: Trên đã nói, công đức lúc bình thường, lễ bái, xưng tán Bồ-tát Địa Tạng. Bây giờ sẽ nói đến cứu độ lúc sắp chết. Sau khi chết không nhất định ai ai cũng đọa lạc, hoặc sinh trở lại làm người; nếu người có công đức lớn sẽ được sinh về cõi trời; nếu người chuyên tâm niệm Phật, sẽ được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Những người này, không cần sự cứu độ, vì có cứu độ cũng thừa. Nhưng trong mấy mươi năm tồn tại, đương nhiên có không ít việc làm sai trái; đặc biệt trong thời đại mạt pháp, tranh đấu mạnh mẽ, lòng sân giận nặng nề, tham dục lớn mạnh, mỗi người đều khó tránh khỏi tội lỗi, cho nên đều có khả năng đọa lạc địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ. Thế thì cần phải dùng cách gì để cứu độ họ đây? Nếu còn sống, tương đối dễ, song đã chết rồi, khó khăn lắm đấy. Người học Phật thời nay, thường đặt nặng ở cứu độ sau khi chết, kì thật tốt nhất là lúc còn sinh tiền. Phương pháp cứu độ, đại để có hai loại: (1) Bố thí làm phước, (2) Quay về nương tựa ba ngôi báu tu tập công đức, tụng kinh, xưng niệm thánh hiệu chư Phật. Trong kinh thường nói, lúc người bệnh đứng trên bờ thập tử nhất sinh, thống khổ đoanh vay, khả năng đọa lạc rất cao, tốt hơn hết hãy lấy đồ vật của người đó, bố thí cho người khác, đặc biệt là bố thí đồ người đó yêu thích nhất. Như có người thích cất chứa sách cổ, tem… sở thích của mỗi người không ai giống ai, hãy bố thí đồ vật người đó yêu thích, nhờ vậy có thể phá trừ tâm chấp trước của chúng sinh. Có khả năng bố thí hết vật yêu thích, thì những thứ gì của anh ta lại không có thể bố thí được nào? Bố thí được vật yêu thích nhất, công đức cũng lớn nhất. Chúng sinh dùng tiền bạc tạo nghiệp rất nhiều, nếu có khả năng đem tiền bạc bố thí, vả lại còn nói rõ với người bệnh, lấy vật anh yêu thích nhất, bố thí tạo phước cho anh, nhất định sẽ đạt được quả báo công đức không nhỏ. Một mặt giúp anh ta khởi tâm xả bỏ, giảm đi chấp trước, mặt khác tăng trưởng phước đức cho anh ta. Không luyến ái, chấp trước tài vật đang có, tăng trưởng phước đức trời người, thế thì đương nhiên sẽ không có đọa lạc, đây là phương pháp cứu độ căn bản người bệnh sắp lâm chung của Phật giáo. Ngoài ra còn một cách, tu tạo công đức với ba ngôi báu, có thể cúng dường ba ngôi báu, tụng kinh, lễ bái sám hối, xưng niệm thánh hiệu chư Phật, Bồ-tát, nương vào sức gia trì đặc biệt của ba ngôi báu, giúp người sắp lâm chung, được lợi ích lớn. Như kinh Bổn Nguyện quyển thượng ghi: “Lúc người bệnh sắp lâm chung, cha mẹ bà con, nên làm phước để giúp cho người sắp chết. Có thể treo tràng phang bảo cái và đốt đèn dầu, hoặc luân phiên đọc tụng kinh điển, hoặc cúng dường tượng Phật và tượng Bồ-tát, thánh hiền, cho đến niệm thánh hiệu Phật, Bồ-tát và Bích-chi Phật… những tội của người ấy, đều được tiêu diệt.” Người sắp lâm chung, cảnh giới hiển ra trước mắt rất ghê sợ, tội nghiệp lại nặng, rất dễ đọa lạc. Cha mẹ, anh chị em, bà con quyến thuộc… của người sắp chết đó, nên tu tạo phước đức, công đức, đốt đèn cúng Phật, tụng kinh hoặc niệm thánh hiệu của chư Phật, Bồ-tát, những việc làm này đều có khả năng giúp người sắp chết rời xa con đường nguy hiểm, hướng thẳng đến đạo lộ bình an, giải thoát. Càng giản yếu hơn, như “lúc sắp mạng chung, chỉ cần nghe được một thánh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, chúng sinh đó vĩnh viễn không bị chịu thống khổ trong ba đường ác.” (Bổn Nguyện kinh quyển thượng) Người sắp mạng chung, nếu có khả năng nghe được thánh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng, chỉ cần nghe một thánh hiệu qua tai, biết đang có Bồ-tát hiện diện trong ta, người này sẽ vĩnh viễn không bị thọ khổ trong ba đường ác; nếu chúng ta có khả năng niệm Phật, phóng sinh làm phước cho người sắp mạng chung, càng giúp cho người ấy lánh xa con đường đọa lạc.
Trong suốt một đời người, nghiệp tạo ra không ít, lúc lâm chung nghiệp gì sẽ đi thọ báo đây? Có ba loại nghiệp: (1) Đi theo nặng: Ví dụ như tạo năm tội vô gián, đây là nghiệp ác lớn nhất, vừa chết liền đọa vào địa ngục; còn ngược lại, người tu tập thiền định tối cao, định lực thâm hậu, vừa tắt hơi tức khắc được chuyển sinh về cõi trời. Tuy nghiệp tạo ra nhiều, nhưng đi theo nghiệp nào mạnh nhất. Cho nên nói: “Như người đòi nợ, người nào mạnh sẽ đi trước.” (2) Theo thói quen: Dựa vào thói quen hằng ngày. Nghiệp không nặng lắm, nhưng những gì chúng ta làm hằng ngày, lâu thành thói quen. Có một số người, cả đời không tạo đại ác, cũng không làm đại thiện, thế cần phải xem nghiệp anh ta làm hằng ngày là gì, nghiệp nào nhiều nhất, sẽ theo nghiệp đó thọ báo. (3) Theo ý niệm: Lúc sắp tắt hơi, người đó nghĩ đến nơi nào, liền đầu thai vào nơi đó. Nếu phạm trọng nghiệp, đương nhiên không thể chuyển được. Ngược lại, không phải trọng nghiệp, lúc người ấy sắp mạng chung, dạy anh ta không chấp trước, nhìn thấu, buông xả, lấy vật của người đó đem bố thí tu tạo công đức. Tuy nhiên sinh mạng sắp lìa cõi trần, chỉ cần anh ta vẫn còn biết mình bố thí tu tạo phước lành, tâm không tham trước, tâm cảnh khai thông, liền thọ sinh theo ý niệm lành đó. Hoặc lúc sắp mạng chung, trợ niệm, hướng dẫn anh ta, giúp người bệnh nghe được thánh hiệu của Phật, trong tâm cũng niệm Phật theo. Giả sử người ấy đang đứng trên bờ vực của nguy hiểm sắp đọa lạc, anh ta biết có người niệm Phật cho mình, liền sinh khởi tâm lành, hướng về ánh quang minh. Nghe đến thánh hiệu của Phật, trong lòng liền được an ninh, ngay tức khắc có khả năng cứu anh ta khỏi đọa vào đường ác. Cho nên lúc bình thường chuyên tâm niệm Phật đương nhiên rất tốt, trợ niệm lúc lâm chung, cũng là việc trọng yếu. Song sợ nhất, lúc tranh giành giữa thần chết và thần sống, phiền não ác nghiệp kéo đến, hiển hiện ra trước mắt. Ác niệm vừa khởi, công lao tu hành cả một đời ngay tức khắc biến thành công cốc. Cho nên lúc lâm chung, gia quyến của người đó khóc lóc, sẽ làm cho tâm người chết loạn động, thống khổ, khiến họ đọa lạc, đây là yêu người để hại người. Cho nên điều khẩn cấp và quan trọng nhất, giúp người sắp chết bình tĩnh, thanh tịnh, sinh tâm hoan hỉ. Đặc biệt người có tâm keo kiệt, tham lam, sẽ đọa vào loài quỉ đói, nếu quyến thuộc bố thí tạo phước cho y, y sẽ sinh tâm buông xả, liền được cứu vớt. Người tạo tội cực ác, không những khó đổi, mà người tu phước cực thiện sinh về cõi trời như vô tưởng định, sẽ sinh lên cõi trời Vô Tưởng, muốn anh ta không được sinh, thật là chuyện không đơn giản chút nào. Tuy có ba loại, nhưng cách cứu độ hữu hiệu nhất, vẫn là dùng niệm lành chuyển niệm ác, nắm vững phương pháp “theo ý niệm”. Phật pháp có phương tiện, có thể kéo chúng sinh đang đứng sát bờ mé địa ngục, nhưng tốt nhất vẫn là không tạo nghiệp cực ác.
3. Cứu độ sau khi mạng chung: Người tạo nghiệp ác, lúc sắp mạng chung cảnh giới không tốt hiện ra, nên làm phước hồi hướng cho y, nương vào oai lực của ba ngôi báu, y thoát khỏi cảnh khổ. Nhưng nếu đã chết rồi, phải làm sao đây? Kinh nói: “Sau khi chết, trong vòng 49 ngày, tu tập các công đức lành, nhờ đó giúp chúng sinh, xa lìa đường ác, được sinh lên cõi trời cõi người, hưởng vui thù thắng.” (Bổn Nguyện kinh quyển hạ) Đây muốn nói, trong vòng 49 ngày sau khi chết, nên tu tạo các phước lành, bố thí, niệm Phật, hồi hướng cho người mất, y sẽ nương vào công đức đó, xa lìa thống khổ ba đường ác, sinh lên cõi trời hoặc trở lại làm người. Vì sao cần phải tu tạo công đức lành cho người chết trong 49 ngày? Phật tử Phật giáo Trung Quốc, cứ sau khi chết bảy ngày đều làm “tuần” (thất) một lần, 49 ngày gọi là “mãn thất”, tôi nghĩ điều này phải cần giải thích một chút. Thì ra thọ mạng, hơi ấm, thần thức của con người rời khỏi thân thể, gọi là chết, đây chính là tác dụng của tinh thần hoàn toàn dừng lại, hơi ấm trong người không còn, mạng sống bị đoạn tuyệt, mới là chết. Con người sau khi chết, có những người liền thọ quả báo, có những người phải trải qua một thời gian mới thọ quả báo. Nếu người tạo tội nghiệp nặng ngũ vô gián, sau khi chết lập tức đọa vào địa ngục, niệm trước vừa chết, niệm sau liền đọa địa ngục, khoảng cách giữa niệm trước và niệm sau hoàn toàn không có, liền thành ngục Vô Gián. Sinh lên cõi trời cũng giống như vậy, nếu tu tạo nghiệp lành lớn, niệm trước vừa chết, niệm sau liền sinh thiên. Còn nếu như sinh trở lại cõi người, súc sinh, ngạ quỉ… phần lớn đều phải trải qua một đoạn thời gian. Lúc đó, tuy đã chết, nhưng vẫn còn thân trung ấm. Người sau khi chết, sẽ sinh về đâu? Nếu trở lại làm người hoặc làm súc sinh… đại để đều không thể lập tức thọ báo; khoảng thời gian sau khi chết đến lúc đi đầu thai, gọi là thân trung ấm, đây là thời kì hình thái của thời kì quá độ. Thân trung ấm này, cứ bảy ngày chết một lần, sau khi chết khởi niệm thứ hai lập tức thọ thân trung ấm khác. Có khả năng, ngày thứ nhất, ngày thứ hai, đã thọ quả báo đời sau, nhưng lâu nhất trải qua bảy lần chết bảy lần sống lại trong 49 ngày, sẽ quyết định thọ sinh. Ngược lại, trong 49 ngày này, còn trải qua một giai đoạn, vẫn chưa thọ sinh, sau khi kết thúc thời kì quá độ này, nhất định thọ quả báo làm người, súc sinh, hoặc đọa lạc vào địa ngục. Đương lúc nghiệp báo đời sau chưa hiện tiền (thời kì quá độ), cần phải tu tập mọi công đức lành. Nếu người chết phải đọa vào đường súc sinh, trong thời kì thân trung ấm, chưa thọ quả báo súc sinh, lúc này hãy tu tạo phước lành cho anh ta, nhờ đó có thể chuyển được quả báo của y. Tu tạo công đức, làm Phật sự (cúng dường, bố thí, phóng sinh, niệm Phật, ấn tống kinh sách, thỉnh chư tăng tụng kinh…) trong 49 ngày, không giới hạn ngày đầu thất hoặc thất thứ hai, mà nội trong 49 ngày đều có thể làm. Ví dụ như có người đi xe từ Đài Bắc đến Cao Hùng, Cao Hùng là điểm cuối, đích cần đến. Giả như có người tìm anh ta, y có thể xuống ở trạm Đài Trung, Đài Nam đều được, thay đổi mục đích đến Cao Hùng. Trong 49 ngày tu tạo phước lành, bố thí, niệm Phật, làm Phật sự cho người đã chết, giúp anh ta ra khỏi đường ác, cũng có nghĩa đưa anh ta xuống nửa đường. Nếu như đã qua 49 ngày, theo nghiệp thọ báo, không cách gì kéo lại được, giống như xe đã đi đến đích, thì quá muộn rồi.
Lúc đức Như Lai còn tại thế, luôn dạy bố thí tu tạo phước lành, cúng dường ba ngôi báu, hoặc cứu giúp người nghèo khổ, khó khăn… rồi hồi hướng cho người bệnh, chết. Hiện tại Phật giáo Trung Quốc, vẫn còn lưu hành việc tu tạo công đức lành cho người chết. Gia chủ thỉnh người xuất gia đến tụng kinh, niệm Phật, lễ sám. Có một số gia chủ chẳng có tâm thành kính, tu tạo hồi hướng công đức cho người chết, mà giống như giao dịch mua bán, bao nhiêu tiền một ngày hoặc một đêm, tất cả đều phải bàn tính, giao kèo ổn thỏa, mới bắt đầu làm Phật sự. Điều này là thuê người tụng kinh, chứ gia chủ chẳng có kiền thành gì cả. Đem tiền đến chùa, không có ý nghĩ bố thí, cúng dường, đương nhiên cũng không hưởng được phước báo của bố thí. Bố thí là một chuyện, bỏ tiền ra thỉnh chư tăng ni tụng kinh, niệm Phật lại là chuyện khác. Nếu dùng tiền thỉnh người tụng kinh, niệm Phật, tức đã mất đi ý nghĩa của bố thí. Chuyện tụng kinh, niệm Phật, siêu độ vong linh của ngày hôm nay, do tổ sư truyền lại, nói thật đây là việc hết sức trọng yếu đối với cuộc sống; nhưng vấn đề ở kinh doanh hóa Phật sự, đánh mất đi ý nghĩa tối cao phương tiện cứu độ của Phật giáo.
Gia đình tụng kinh, niệm Phật cho người thương đã chết của mình, công đức không hoàn toàn thuộc về người chết. Trong Bổn Nguyện kinh quyển hạ ghi: “Sau khi mạng chung, bà con quyến thuộc tu tạo phước lành lợi ích cho người chết. Tất cả việc làm to lớn đó, trong bảy phần công đức người chết chỉ hưởng được một phần, sáu phần công đức còn lại, thuộc về người sống.” Lại ghi: “Lo phẩm vật chay tịnh cúng dường… nếu như ăn trước, không được trong sạch, (chư tăng) không tinh tấn tu tập, giới luật không tinh nghiêm, thanh tịnh, người chết chẳng được chút công đức nào cả.” Thì ra tất cả công đức tụng kinh, niệm Phật, tu tạo phước lành, làm Phật sự cho người thương đã chết, người sống hưởng nhiều, người chết hưởng ít, người sống được 6/7 còn người chết chỉ được 1/7 mà thôi. Nếu có người thương qua đời, chúng ta làm hết thảy mọi công đức, như bố thí, tu phước, tụng kinh, niệm Phật… cho họ, thì người làm được sáu phần, người chết được một phần. Cho nên kinh Địa Tạng nói: “Người sống kẻ chết đều được lợi ích.” Nếu người xuất gia làm pháp sự cho gia chủ với tâm chí thành chí thiết, chính mình cũng được công đức. Nhưng thông thường người xuất gia hiện nay, tụng kinh, niệm Phật, làm Phật sự cho người, làm một cách hời hợt, chẳng xem đây là việc tu hành. Nếu lúc làm Phật sự cho người, không chí thành cung kính, nhất tâm coi đây là phương tiện hoằng pháp lợi sinh, thời khóa tu hành, chẳng những người chết không được lợi ích, chính mình cũng không có chút công đức nào cả, chỉ một ngày được bao nhiêu tiền đó mà thôi.
Người chưa chết, nếu chúng ta tụng kinh, niệm Phật cho anh ta, nương vào năng lượng ba ngôi báu, giúp anh ta cũng khởi được tâm hoan hỉ, kính ngưỡng, cho nên rất dễ cứu độ. Chứ đợi đến khi chết, trong vòng 49 ngày, làm công đức, siêu độ, hồi hướng cho anh ta, đòi hỏi gia chủ phải kiền thành, người tụng kinh lễ sám cũng phải hết sức chí thành khẩn thiết, mới có khả năng phát sinh tác dụng. Cho nên trong kinh Địa Tạng, đặc biệt nói đến hai điểm này. Thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ hồi hướng cho người chết, tức thiết trai cúng dường trong kinh đã nói. Ở Ấn Độ, thiết trai tức là cúng Phật và tăng. Trung Quốc thỉnh chư tăng tụng kinh, niệm Phật, hồi hướng cho người chết, thiết trai cúng dường, đem công đức này hồi hướng cho người quá cố. Nếu trai chủ, gia quyến sát sinh, ăn thịt, hoặc tăng chúng làm Phật sự không tinh tấn, thanh tịnh, nhất định người chết sẽ không được lợi ích. Cho nên điều đầu tiên, trai chủ, gia quyến phải thanh tịnh, kiền thành, ăn chay, phát khởi lòng tin thanh tịnh với ba ngôi báu, mới có hiệu quả. Có một số người, sau khi tổ tiên, cha mẹ qua đời, cũng thỉnh chư tăng đến tụng kinh, niệm Phật, siêu độ, nhưng xem chư tăng giống như chẳng có quan hệ gì với mình cả, thầy tụng kinh của thầy, gia chủ, quyến thuộc lo tiếp đãi khách của mình, uống rượu, đánh bài, vui chơi, ầm ĩ cả lên. Siêu độ kiểu như vậy, gia chủ, quyến thuộc chẳng có tâm cung kính đối với chư tăng, chẳng khác nào thuê người làm công, tuy nhiên tiền cũng tiêu rồi, tụng niệm ồn ào cũng hay, song chẳng có chút tác dụng gì đến người chết. Điều quan trọng nhất, con cháu quyến thuộc, tinh tấn kiền thành, kính ngưỡng oai lực của ba ngôi báu, thỉnh chư tăng hướng dẫn mình tụng kinh, niệm Phật. Chẳng phải tôi đưa anh tiền, anh tụng kinh cho tôi. Do đó, chính mình cần phải khẩn thiết kiền thành, lễ bái sám hối theo chư tăng, mới có thể nương vào năng lượng ba ngôi báu, cứu độ siêu thoát người thương đã chết, đưa người chết đang ở trong nhân duyên đọa lạc, được sinh về cõi trời, cõi người. Bình thường có rất nhiều người tụng kinh Địa Tạng, cho nên đối với những điều này đòi hỏi mọi người cần phải biết và để tâm đến.
Cần phải tu tạo công đức nội trong 49 ngày. Tại sao vậy? Bởi vì “trong 49 ngày, lúc nào người chết cũng trông mong, bà con quyến thuộc tu tạo phước lành để cứu độ. Qua 49 ngày, tùy nghiệp thọ báo.” (Bổn Nguyện kinh quyển hạ) Trong vòng 49 ngày ở đây nói, kì thật không nhất định phải 49 ngày, có người trong vòng bảy ngày đã thọ sinh, có người hai tuần, ba tuần đã thọ sinh, nhiều nhất là bảy tuần phải thọ quả báo. Cho nên trong vòng 49 ngày, lúc nào người chết cũng mong mỏi, trông ngóng quyến thuộc, bà con của mình, cầu ba ngôi báu gia hộ, độ trì cho mình, tu tạo mọi công đức lành cho mình, có thể đang trên bờ vực của đọa lạc, được cơ hội cải thiện. Lúc này người chết, đang thọ thân trung ấm, bản thân không có sức lực, làm việc gì cũng không thể tự chủ, chỉ hi vọng quyến thuộc siêu độ, cứu vớt. Nếu qua 49 ngày, không người cứu độ, chỉ còn cách chịu khổ trong ba đường ác. Giống như ngồi xe lửa, khi đã đến ga, không thể không xuống. Cho nên khi có người thương qua đời, trong 49 ngày phải thiết lập cách cứu độ. Cũng như lúc người ta phạm pháp, có thể mời luật sư bào chữa, biện hộ. Nhưng nếu tòa đã có phán quyết cuối cùng, thì không cách gì sửa đổi được.
4. Cứu độ người đọa lạc: Đương nhiên, tốt nhất vẫn là mình không làm ác, để khỏi bị đọa lạc. Nếu đã lỡ tạo ác nghiệp rồi, nhưng vẫn còn sống, có thể bố thí làm phước, tu tập mọi công đức. Nếu đã chết, nội trong 49 ngày, nên làm công đức để cứu độ. Nếu sau khi chết, đã qua 49 ngày, theo nghiệp thọ báo, có cách nào cứu độ được không? Điều này nếu không có năng lượng lớn không thể cứu nỗi. Giống như sau khi tòa đã có phán quyết cuối cùng, không đặc xá thì không thể nào được giảm án. Làm thế nào cứu độ chúng sinh đã đọa vào địa ngục? Điều này hoàn toàn dựa vào lòng hiếu thảo tha thiết cứu độ của con cháu. Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kể, chuyện Bồ-tát Địa Tạng trong đời quá khứ, có thể biết được cứu độ người đã đọa lạc như thế nào. Tuy đã đọa vào địa ngục, song vẫn có thể cứu độ. Trong kinh Địa Tạng, nói đến hai sự kiện: Một là chuyện Bà-la-môn nữ, còn một là nàng Quang Mục, đây đều là chuyện kể về đời quá khứ của Bồ-tát Địa Tạng. Trong đời quá khứ, có một kiếp Bồ-tát Địa Tạng là Bà-la-môn nữ, mẫu thân không tin ba ngôi báu, tu theo tà kiến, sau khi chết bị đọa vào địa ngục chịu khổ. Bà-la-môn nữ biết mẹ mình lúc còn sống không tin ba ngôi báu, nghe theo lời thầy tà bạn xấu, chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục, liền bố thí, tu phước cho mẫu thân, thấy tượng Phật đều cung kính lễ bái. Khóc than thảm thiết, Phật đã nhập Niết-bàn, nếu Phật còn tại thế, có thể hỏi Ngài, mẹ mình đang sinh về chốn nào. Tâm nàng đau đớn cùng cực. Lúc đó, có tiếng nói với nàng, dạy nàng không nên quá đau buồn, chỉ cần nhất tâm niệm thánh hiệu của Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai (lúc đó Ngài đã thị hiện Niết-bàn), liền có thể biết mẹ nàng đang ở chốn nào. Bà-la-môn nữ chí thành cung kính, dứt bặt tạp niệm, một lòng xưng niệm thánh hiệu Phật. Không lâu sau, trong định Bà-la-môn nữ thấy mình đến địa ngục, hỏi ngục tốt mẹ mình có ở đây không? Ngục tốt nói: “Bà ta nhờ con gái của mình có lòng hiếu thuận, bố thí, tu tạo phước lành, đặc biệt trì niệm thánh hiệu Phật cho bà, nương nơi công đức này, đã được sinh về cõi trời rồi.” Qua dẫn chứng này, biết được lòng chí thành của người con có hiếu, cùng công đức không thể nghĩ bàn của niệm Phật, hai năng lượng cảm ứng tổng hợp, tội nhân tuy đã đọa vào địa ngục, cũng có thể được cứu.
Nàng Quang Mục, cũng là hiếu nữ mà Bồ-tát Địa Tạng đã thị hiện trong đời quá khứ, mẹ nàng lúc sinh tiền rất thích ăn cá, phạm tội sát sinh cực nặng. Nàng biết mẹ sau khi chết sẽ bị đọa vào đường ác, do đó thỉnh vị A-la-hán nhập vào đại định quán sát, mới biết quả nhiên mẹ của nàng đang bị đọa vào trong địa ngục. Sau đó, cũng nhất tâm niệm Phật, cung kính cúng dường, dùng năng lượng của lòng hiếu thảo, cứu mẹ thoát khỏi thống khổ trong địa ngục.
Qua hai dẫn chứng đã được đức Như Lai nói trong kinh Địa Tạng, biết tuy chúng sinh đã đọa vào địa ngục, chỉ cần tấm lòng hiếu thảo của con cháu chí thành khẩn thiết, cộng thêm niệm Phật, cung kính, kiền thành, giữa con cái và cha mẹ có sợi dây truyền thông và quan hệ huyết thống, nương theo oai đức thần lực của ba ngôi báu, có thể giúp cha mẹ được giải thoát. Từ bi cứu độ của những người bình thường (không có quan hệ gì cả), tuy cũng có cảm ứng, nhưng cha mẹ và con cháu là cốt nhục thân thiết, nhất định sẽ chí thành khẩn thiết thâm sâu triệt để, năng lượng to lớn nhất, đương nhiên dễ cứu độ nhất.
Lúc niệm Phật, lễ bái cho người đã khuất, cần phải xem như mình đang làm công đức, mới có khả năng cảm ứng. Trong kinh nói: Người tụng kinh sẽ được 6/7 công đức, người chết chỉ được 1/7, vì thế thỉnh người đến tụng kinh, niệm Phật, không bằng lúc còn sống mình nỗ lực tu hành. Cho nên, khi thân thể còn khỏe mạnh, mình hãy tinh tấn niệm Phật, tu tạo mọi phước đức có thể tu, sẽ không sợ nguy hiểm đọa lạc. Nếu đã chết, đương nhiên quyến thuộc nên tu tạo phước lành, bố thí, cứu độ anh ta. Nếu đã đọa lạc, đương nhiên rất khó cứu độ! Duy chỉ có lòng chí thành khẩn thiết của quyến thuộc, mới có thể cứu độ. Bồ-tát Địa Tạng dùng nguyện thương yêu lớn, chỉ bày pháp môn này cho chúng sinh đời ác năm trược, cho hết thảy chúng sinh trong đường ác phương tiện cứu độ. Hiện tại giới Phật giáo Trung Quốc, việc siêu độ tổ tiên, quyến thuộc, rất phổ biến và thịnh hành, hi vọng mọi người đều lí giải được ý nghĩa chân thật của pháp môn này, thật sự đạt được công đức mới hay!
(1). Địa đại (大地): Một trong bốn yếu tố cấu tạo nên tất cả sắc pháp (vật chất). Bản chất là tính cứng và có tác dụng kết hợp. Như tóc, lông, móng, răng, da thịt, gân cốt trong thân người đều thuộc về địa đại.
(2). Phục tàng (伏藏): Nơi cất giữ báu vật hoặc kinh điển được thiết lập trong lòng đất.
Thí dụ phục tàng. Tức chuyện cô gái nghèo không biết trong nhà mình có chôn cất của báu, đến khi bậc trí chỉ bảo mới biết được, dụ cho chúng sinh không biết ngay tự thân mình có Phật tính, đợi đến lúc Phật thuyết pháp chỉ dạy mới giác ngộ.
(3). Hữu tình (有情 tiếng Phạn Sattva): Loài có tình thức và có sự sinh tồn.
Về quan hệ giữa “hữu tình” và “chúng sinh” có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng hữu tình là chỉ riêng cho các sinh vật có tình thức, như loài người, chư thiên, ngạ quỉ, súc sinh, a-tu-la… Còn vật không có tình thức như cây cỏ, ngói đá là vô tình. Nhưng có thuyết cho rằng hữu tình là tên khác của chúng sinh, cả hai cùng một thể nhưng khác tên gọi.
(4). Bích-chi Phật (辟支佛 tiếng Phạn Pratyeka-buddha): Hay còn gọi là Độc giác, Bích-chi-ca Phật. Người tu hành không nương vào giáo pháp của Phật, chỉ do quán nhân duyên sinh diệt của các pháp mà ngộ đạo, trụ nơi Niết-bàn tịch tĩnh. Một trong hai thừa, một trong ba thừa.
Theo luận Đại Trí Độ, Bích-chi Phật có hai hạng: Độc giác Bích-chi Phật và Nhân duyên giác Bích-chi Phật.
1. Độc giác Bích-chi Phật: Có hai hạng:
a. Tiểu Bích-chi-ca Phật: Vốn là hàng Hữu học, chứng quả Tu-đà-hoàn sau 7 lần thọ sinh, trở lại nhân gian nhằm thời không có Phật mà tự chứng đạo tương đương với hàng Thanh văn, đắc quả trong Bộ hành Độc giác.
b. Đại Bích-chi-ca Phật: Tức ở trong trăm kiếp tu hành tăng trưởng phúc tuệ, thành bậc Thánh có 31 tướng tốt, 30 tướng, 29 tướng, cho đến 1 tướng, tương đương với Lân giác dụ Độc giác.
2. Nhân duyên giác Bích-chi Phật: Do quả báo của phước báo hạnh nguyện đời trước, nên đời này không cần phải theo người khác nghe pháp, mà tự mình có khả năng phát sinh trí tuệ, nhờ nhân duyên nhỏ như thấy hoa bay lá rụng mà giác ngộ. Vị này tương đương với Dị sinh phàm phu trong Bộ hành Độc giác.
(5). Ba tạng (tam tạng) (三藏 tiếng Phạn Trīṇi piṭakāni): Tức Kinh, Luật và Luận.
a. Kinh tạng (經藏 tiếng Phạn Sūtrānta-piṭaka): Kinh điển do đức Thế Tôn nói ra, trên khế hợp với lí của chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ của chúng sinh; các yếu nghĩa trong giáo thuyết của Đức Phật đều thuộc về loại Kinh bộ.
b. Luật tạng (律藏 tiếng Phạn Vinaya-piṭaka): Luật nghi do Phật đặt ra có công năng sửa trị những điều xấu ác của chúng sinh, điều phục tâm tính của chúng sinh; các quy định về sinh hoạt của giáo đoàn đều thuộc về loại Luật bộ.
c. Luận tạng (論藏 tiếng Phạn Abhidharma-piṭaka): Luận nghị về ý nghĩa của kinh Phật, đơn giản những chỗ súc tích thành sáng suốt, để quyết trạch tính tướng các pháp; để phát triển giáo thuyết của Đức Phật xa hơn nên người đời sau dùng trí tuệ thù thắng giải thích, luận nghị giáo thuyết ấy bằng hình thức tổ chức hóa, hệ thống hóa.
(6). Mười hai bộ kinh (thập nhị bộ kinh) (十二部經 tiếng Phạn dvādaśāṅga-buddha-vacana): Mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp.
(1) Khế kinh (trường hàng): Tức thể loại văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật.
(2) Ứng tụng (trùng tụng): Tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.
(3) Kí biệt (thọ kí): Vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa, đời sau đặc biệt chỉ cho lời ấn chứng trước của đức Như Lai đối với việc làm ở vị lai của các đệ tử.
(4) Phúng tụng (cô khởi): Tức phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Đức Phật mà không lập lại ý của văn trường hàng trước đó.
(5) Tự thuyết: Đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo pháp.
(6) Nhân duyên: Ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Đức Phật, như phẩm “Tự” của các kinh.
(7) Thí dụ: Dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa.
(8) Bổn sự: Các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử, ngoài Bổn sinh đàm. Hoặc những kinh mở đầu bằng câu “Phật như thị thuyết” (Đức Phật nói như vậy) cũng thuộc loại Bổn sự.
(9) Bổn sinh: Thể loại kinh nói về các hạnh đại bi mà đức Như Lai tu hành vào đời quá khứ.
(10) Phương quảng: Các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.
(11) Hi pháp (vị tằng hữu): Nói về những việc ít có của Phật và chúng đệ tử.
(12) Luận nghị: Đức Phật luận nghị thể tính các pháp, làm sáng tỏ ý nghĩa.
(7). Tàm quí (慚愧 “Tàm” tiếng Phạn Hrī và “Quí” tiếng Phạn Apatrāpya): Tâm biết hổ thẹn bởi lỗi đã gây tạo, một trong các Đại thiện địa pháp của thuyết Nhất Thiết Hữu bộ, một trong các pháp thiện của tông Pháp Tướng.
Theo luận Câu-xá:
- Tàm là tâm biết tôn kính công đức và người có đức, Quí là tâm sợ tội.
- Tàm là tâm tự hổ thẹn bởi các tội ác do mình gây tạo; Quí là tâm hổ thẹn về tội lỗi của mình đã tạo khi đối diện với người khác.
Luận Thành Duy Thức: “Tàm” là tôn trọng chính mình trước, sau tôn trọng các bậc hiền thánh, đồng thời tôn trọng pháp; “Quí” là chống lại những việc bạo ác do sự tác động của thế gian (sự chê bai của người khác, hoặc sự cấm ngăn của luật pháp). Tức chủ trương hổ thẹn là tướng chung của Tàm và Quí; còn tôn trọng điều thiện và xa lánh điều ác, theo thứ tự là tướng riêng của Tàm và Quí.
Đối lại với Tàm và Quí, nếu không tôn kính các công đức, hoặc không nhận thức các tội ác do mình gây tạo mà cảm thấy xấu hổ… thì đều gọi là Vô Tàm. Tâm không sợ tội hoặc không cảm thấy xấu hổ về tội lỗi do mình tạo ra khi đối diện với người khác thì gọi là Vô Quí. Tàm và Quí có công năng làm cho tất cả các hạnh được trong sạch, nên được gọi là “nhị chủng bạch pháp” (hai pháp trong sạch).
(8). Chính kiến (正見 tiếng Phạn Samyag-dṛṣṭi): Kiến giải đúng về lí Tứ đế, xa lìa hai pháp tà kiến Hữu, Vô.
Theo luận Đại Tỳ-bà-sa, chính kiến có thể chia làm hai loại:
a. Chính kiến hữu lậu: Cũng gọi là chính kiến thế tục, tức thiện huệ hữu lậu tương ưng với ý thức, thuộc về hữu lậu hữu thủ, cho nên chuyển hướng về con đường lành, chiêu lấy quả đáng ưa vừa ý trong tương lai.
b. Chính kiến vô lậu: Cũng gọi chính kiến xuất thế gian, tức thiện huệ tương ưng với ý thức, cả trí vô sinh cũng không nhiếp được, như tám thứ vô lậu nhẫn, tám trí hữu học, chính kiến vô học.
(9). Yết-ma (羯磨 tiếng Phạn Karman): Các việc làm có liên quan đến giới luật như thọ giới, sám hối, kiết giới tức chỉ cho Tác pháp sinh thiện diệt ác.
Lúc thọ giới, nhờ yết-ma mà giới tử thành tựu được giới thể. Nội dung yết-ma gồm bốn thứ: Pháp (tác pháp yết-ma), Sự (tất cả sự thật về yết-ma), Nhân (người có liên quan đến yết-ma) và Giới (nơi thực hành yết-ma). Thông thường được gọi là yết-ma tứ pháp, được giải thích theo thứ lớp như sau:
1. Pháp: Chia làm ba thứ: Tâm niệm, đối thú và chúng tăng.
a. Tâm niệm: Là tự tâm nghĩ tưởng, tự miệng tụng niệm, thích hợp với trường hợp sám hối các tội chướng nhỏ nhiệm. Pháp này chia làm ba:
- Đãn tâm niệm pháp: Tức pháp tâm niệm, không cần phải đối trước người khác, chỉ cần tự nói, như sám hối tội nhẹ Đột-cát-la.
- Đối thú tâm niệm: Vốn là pháp đối thú, nhưng do trong phạm vi kiết giới không có người nên thực hành tâm niệm.
- Chúng pháp tâm niệm: Vốn là pháp Chúng tăng, nhưng vì trong phạm vi kiết giới không có người, nên thực hành tâm niệm.
b. Đối thú pháp: Là phép tắc trình bày sự việc trước 2, 3 vị đồng pháp, ứng dụng thích hợp cho trường hợp thọ 3 y hoặc 1 bát làm vật sở hữu. Pháp này có hai thứ:
- Đãn đối thú pháp: Là pháp đối thú đương phần, phạm vi kiết giới tuy có nhiều vị tăng, nhưng chỉ cần đối thú với một vị đến ba vị là được.
- Chúng pháp đối thú: Vốn là pháp chúng tăng, nhưng trong phạm vi kiết giới không có người nên được phép đối thú.
c. Chúng tăng pháp: Phép tắc trình bày sự việc trước 4 người trở lên (tức tăng-già), ứng dụng thích hợp cho các hành sự quan trọng như bố-tát, tự tứ hoặc thọ giới, là pháp có công năng diệt tội sinh thiện rất mạnh. Pháp này chia thành ba loại:
- Đơn bạch pháp: Tức một lần thông báo cho đại chúng biết, thường thực hành cho các tác pháp thường làm, thứ yếu hoặc những việc đã có qui định nghiêm khắc không được đưa ra những điều nghị bàn khác.
- Bạch nhị pháp: Tức một lần thông báo cho chúng tăng biết, một lần hỏi: “Tác bạch có thành không?”, thường thực hành cho các trường hợp kiết giới.
- Bạch tứ pháp: Tức một lần thông báo cho chúng tăng biết, ba lần hỏi: “Tác bạch có thành không?”, thường thực hành cho các trường hợp như thọ giới Cụ túc hoặc sám hối tội nặng. Ngoài ra, khi truyền giới Cụ túc, người trao tác pháp bạch tứ yết-ma gọi là Yết-ma sư. Nói về mặt Sự, như trên đã nêu cộng thêm hai pháp của Tì-kheo thì yết-ma có tẩt cả 183 pháp (có thuyết nói 184 pháp), nhưng thông thường gọi là Bách nhất yết-ma, vì “Bách” biểu thị cho số đầy đủ, cho mỗi pháp đều bao hàm một yết-ma.
2. Sự: Chia thành ba thứ: Hữu tình sự, Phi tình sự và Nhị hợp sự. Hữu tình sự chỉ cho những việc về hữu tình (tức chúng sinh); Phi tình sự chỉ cho những việc về vật vô tình như ba y một bát, như cách phân biệt ba y, cách giữ gìn bát sắt; nếu hợp hai việc nói trên thì gọi là Nhị hợp sự, như cách giữ gìn thuốc, bản thân thuốc là phi tình sự, người bệnh là hữu tình sự, chính là Nhị hợp sự.
3. Nhân: Gồm một người, hai, ba người và tăng (bốn người trở lên). Hễ nói về “Pháp” thì tùy theo nhân duyên mà phân biệt Thể của nó. Tức “Tâm niệm pháp” đã nói trên chính là pháp một người. Khi phạm vi kiết giới không có người mới thực hành pháp này. Nếu có một người gọi “phi pháp biệt chúng”. Pháp đối thú là hai người đối diện, cùng thực hành pháp sự. Nếu có người bên cạnh thì nên hỏi người đó. Nếu trong giới có thầy Tì-kheo thì lấy toàn số Tì-kheo nhóm họp làm pháp, nếu có một thầy không tham gia thì trở thành “phi pháp biệt chúng”.
4. Giới: Chỉ nơi tiến hành yết-ma. Có chia ra tự nhiên giới và tác pháp nhiếp tăng giới khác nhau. Tự nhiên giới chỉ cho cảnh giới tự nhiên trở thành trụ xứ của tăng chúng, như tự viện; vì chẳng phải ý định riêng hoạch định, bố trí mà thành nên còn gọi là Bất tác pháp giới. Hai pháp đối thú, Tâm niệm và tạp pháp một người, 2, 3 người trong chúng, pháp tự tứ bốn người đều có thể tiến hành trong giới tự nhiên. Tác pháp giới chỉ cho trao tiểu giới, tam đại giới và giới tràng hạng cuộc trong một cảnh vực nhất định mà thực hành pháp kiết giới. Tiểu giới là khi trong cùng một giới có người không đồng ý hoặc đối với pháp có người quở trách, phải kiết giới riêng bên ngoài để thực hành thọ giới, tự tứ, thuyết giới. Nếu vì phương tiện nhất thời mà kiết giới thì sau khi pháp sự xong rồi phải giải giới. Đại giới là nơi chúng tăng thường sinh hoạt, chỉ cho giới nhân pháp nhị đồng, thông thường lấy 120 dặm làm định lượng. Về giới tràng, vì sợ nhóm họp tăng chúng sinh ra phiền não cho nên được phép kiết giới tràng, để thực hành các pháp thọ giới, sám hối; nhưng khi thuyết giới và tự tứ thì không được thực hành.
(10). Thập thiện (十善): Mười nghiệp lành, 10 hành vi thiện do thân, miệng, ý tạo ra.
- Thân có ba: Bảo vệ sinh mạng (không sát sinh), tôn trọng quyền tư hữu (không trộm cắp) và bảo vệ tiết hạnh (không tà dâm).
- Miệng có bốn: Thực tập chính ngữ và lắng nghe (không nói dối), không nói lời hung ác, không nói thêu dệt (lời nói do tâm nhiễm phát ra) và không nói lưỡi hai chiều (không nói lời gây li gián, lời phá hoại).
- Ý có ba: Không tham lam, không giận hờn và không si mê.
(11). Tam thừa (三乘 tiếng Phạn Trīṇi yānāni): Ba xe, dụ cho ba pháp môn chuyên chở chúng sinh vượt qua sinh tử đến bờ Niết-bàn. Căn cứ vào căn cơ chúng sinh có độn căn, trung căn và lợi căn khác nhau, đức Thế Tôn nói ba thứ giáo pháp là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa.
a. Thanh văn thừa: Nhờ nghe âm thanh thuyết giáo của đức Như Lai mà được ngộ đạo nên gọi là Thanh văn. Hàng Thanh văn biết khổ, đoạn tập, ưa diệt , tu đạo, dùng Tứ đế này làm thừa.
b. Duyên giác thừa: Quán 12 nhân duyên, giác ngộ lí chân đế, nên gọi là Duyên giác. Bắt đầu quán vô minh cho đến lão tử, kế là quán vô minh diệt cho đến lão tử diệt, do nhân duyên sinh diệt này mà ngộ chẳng sinh chẳng diệt, cho nên lấy 12 nhân duyên này làm thừa.
c. Bồ-tát thừa (Phật thừa, Đại thừa, Như Lai thừa): Cầu vô thượng Bồ-đề, nguyện độ hết thảy chúng sinh, tu lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ), lấy sáu độ này làm thừa.
Hai thừa trước chỉ tự lợi, không lợi tha, cho nên gọi chung là Tiểu thừa, còn Bồ-tát thừa đủ cả tự lợi và lợi tha, nên thuộc về Đại thừa.
(12). Thiên kiến (偏見): Cách nhìn thiên lệch.
(13). Ngũ Thừa (五乘 tiếng Phạn Yāna): Năm pháp môn tu hành dẫn dắt, dụ cho năm phương tiện vận chuyển chúng sinh để thế giới an lạc. Có rất nhiều thuyết nói về Ngũ thừa. Nhưng theo nghĩ thông dụng, Ngũ thừa:
a. Nhân thừa: Dùng Ba pháp nương tựa, Năm nguyên tắc đạo đức làm phương tiện, vận chuyển chúng sinh ra khỏi ba đường ác, sinh vào cõi người.
b. Thiên thừa: Dùng pháp Thập thiện, bốn thiền, tám định làm phương tiện vận chuyển chúng sinh vượt khỏi bốn châu, sinh lên cõi trời.
c. Thanh văn thừa: Dùng pháp môn Tứ đế làm phương tiện vận chuyển chúng sinh ra khỏi ba cõi, đến Hữu dư Niết-bàn, thành bậc A-la-hán.
d. Duyên giác thừa: Dùng pháp môn 12 nhân duyên làm phương tiện vận chuyển chúng sinh ra khỏi ba cõi, đến Vô dư Niết-bàn, thành Phật Bích-chi.
e. Bồ-tát thừa: Dùng pháp môn Bi trí lục độ làm phương tiện vận chuyển chúng sinh vượt qua cảnh giới của 3 thừa, 3 cõi, đến Đại Niết-bàn Vô thượng Bồ-đề.
(14). Cộng pháp (共法): Cũng gọi cộng công đức. Vô lượng công đức của Phật cộng thông với công đức của các thánh khác và chúng sinh.
Chẳng hạng như ba pháp: Vô tránh, Nguyện trí, Tứ vô ngại giải trong vô lượng công đức của Phật, thì A-la-hán… cũng có được. Các pháp Ngũ thông, Tứ tịnh lự, thì phàm phu cũng có thể được. Các pháp công đức này tuy cùng thông với các thánh khác, nhưng công đức của Phật thù thắng tự tại hơn. Ngoài ra, các pháp tắt phổ thông cũng gọi là Cộng pháp.
(15). Bất cộng pháp (不共法): Cũng gọi bất cộng Phật pháp. Pháp công đức thù thắng chỉ có Phật và Bồ-tát mới đầy đủ, còn Nhị thừa và phàm phu thì không có. Trong kinh luận Tiểu thừa và Đại thừa, đối với pháp bất cộng này có nhiều thuyết khác nhau, thông thường gọi chung các pháp: Thập lực, Tứ vô sở úy, Tam niệm trụ và Đại bi của Phật là 18 pháp Bất cộng.
(16). Không (空 tiếng Phạn Śūnya): Sự hư huyễn không thật của sự vật hoặc sự rỗng lặng trong sáng của lí thể.
Quan niệm cho tất cả sự vật tồn tại đều không có lí thể, thật ngã… được gọi là tư tưởng Không. Tư tưởng này có từ thời Đức Phật còn tại thế, rõ ràng nhất là trong Phật giáo Đại thừa, tư tưởng Không còn là tư tưởng căn bản của hệ thống kinh Bát-nhã.
Nhị không:
- Theo Trung Luận, Luận Thành Duy Thức, Không gồm có hai loại: Nhân Không và pháp Không. Nhân Không nghĩa là trong cá thể của hữu tình không có sự tồn tại của thật ngã, cho nên Nhân không còn gọi là Ngã không, chúng sinh không… Pháp không nghĩa là tất cả pháp do nhân duyên sinh đều không có thật thể tồn tại, nên còn gọi là Pháp vô ngã. Tiểu thừa chỉ nói Nhân không mà không nói Pháp không, còn Đại thừa thì chủ trương Nhân Pháp nhị không.
- Theo Tam Luận Huyền Nghĩa: Không có hai loại: Đản không và Bất đản không. Đản không nghĩa là chấp không mà không biết Chân không và Diệu hữu; Bất đản không chính là Trung đạo không, nghĩa là biết rõ Chân không và thừa nhận Diệu hữu.
Ngoài ra còn có Tam không, Tứ không, Lục không, Thất không, Thập không, Thập nhất không, Thập lục không, Thập bát không.
(17). Do-tuần (由旬 tiếng Phạn là Yojana): Do-tuần là bao nhiêu thì hiện nay chưa đồng nhất. Theo Đại Đường Tây Vực Kí thì một do-tuần xưa được tính là 20 km, Ấn Độ tính là 15 km, Phật giáo tính là 8 km. Theo thuyết của J.Flect một do-tuần xưa tính là 19,5 km, theo Ấn Độ tính là 14,6 km, theo Phật giáo là 7,3 km. Còn nếu theo thuyết của Major Vost thì một do-tuần xưa tính là 22,8 km, theo Ấn Độ là 17 km và theo Phật giáo là 8,5 km.
(18). Chân không (真空): Lí thể chân như vượt ra ngoài mọi sự đối đãi Không Hữu, xa lìa tất cả các tướng do kiến chấp tạo ra. Chẳng hạng như Không trong Đại Thừa Khởi Tín, Nhị Không Chân Như trong Duy Thức, Chân Không Quán trong ba pháp quán của Hoa Nghiêm. Ngoài ra Đại thừa cho rằng Hữu chẳng phải Hữu gọi là Diệu Hữu, Không chẳng phải Không gọi là Chân Không.
(19). Nhất thừa (一乘): Phương pháp duy nhất giúp chúng sinh đạt đến quả vị Phật. Đức Phật nói Nhất thừa giúp chúng sinh theo đó tu hành, vượt ra ngoài biển khổ sinh tử, chuyên chở hành giả đến bờ Niết-bàn. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dùng hình ảnh Thất bảo đại xa (xe lớn bằng 7 báu) để dụ cho Nhất thừa, còn gọi là Phật thừa, giáo pháp hướng dẫn đến Tri kiến Phật của chính mình.
Sự ra đời của đức Như Lai mục đích là để giảng thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhưng vì căn cơ của chúng sinh không đồng, Ngài phải vận dụng giáo pháp Tam thừa giúp chúng sinh dần dần thuần thục rồi sau đó mới nói Nhất thừa để độ họ đến Nhất thiết chủng trí.
(20). Khai quyền hiển thật (開權顯實): Phá sự chấp trước quyền giáo phương tiện của Tam thừa, để hiển bày nghĩa chân thật Nhất thừa. Đây là từ ngữ phán thích kinh Diệu Pháp Liên Hoa do tông Thiên Thai lập ra.
Khai nghĩa là khai trừ, khai phát, khai thác; khai trừ là trừ bỏ quyền chấp, khai phát là do cơ duyên thuần thục mà lìa quyền chấp, khai thác là quyền tức thật mà triển khai rộng lớn ý nghĩa về thể của nó. Giáo pháp mà đức Như Lai thuyết trước kinh Diệu Pháp Liên Hoa là giáo pháp phương tiện, dùng để dẫn dắt chúng sinh vào trong giáo pháp chân thật. Vì dùng pháp quyền giả phương tiện để hiển bày nghĩa chân thật, nên gọi là Khai quyền hiển thật. Nhưng, quyền, thật vốn không khác nhau, nếu trừ bỏ chấp trước này thì quyền, thật không hai, trở về với nghĩa chân thật Nhất Phật thừa. Đây là luận theo Hóa nghi Tích môn thuộc nửa bộ trước của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nhưng “Khai tích hiển bản” thuộc Hóa nghi Bản môn của nửa bộ sau cũng gọi là “Khai quyền hiển thật”, tức phá trừ chấp trước về quyền giáo Tích môn mà hiển bày thật nghĩa Bản môn. Nếu nói theo toàn bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì 14 phẩm trước là “Khai tam hiển nhất”, tức từ bỏ phương tiện Tam thừa giáo, hiển bày chân thật Nhất thừa giáo, 14 phẩm sau là “Khai cận hiển viễn”, tức từ bỏ “Cận Phật thùy tích”, hiển bày “Chân Phật bản địa”, nhưng 28 phẩm này qui về Khai quyền hiển thật.
(21). Quyền (權): Khi Đức Phật thuyết pháp, chúng đương cơ có khả năng như thật lí giải được chân lí chưa xuất hiện, cho nên Đức Phật tạm dùng chúng đương cơ làm đối tượng quyền giả để nói pháp.
(22). Thật (實): Sự chân thật bất diệt, bao hàm các nghĩa: Vĩnh cửu, cứu cánh, cùng cực. Thật và Quyền (nghĩa là phương tiện quyền giả) được gọi chung là quyền thật. Các dụng ngữ tương quan có Thật giáo, Thật nhân, Thật trí… trái lại thì có Quyền giáo, Quyền nhân, Quyền trí…
(23). Tăng thượng mạn (增上慢 tiếng Phạn Abhi-māna): Tâm tôn mình khinh người khởi lên khi chưa chứng đắc quả vị mà tự cho đã chứng đắc; một trong bảy Mạn nói trong luận Đại Tì-bà-sa, luận Câu-xá.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có nêu bảy tâm thượng mạn và giải thích tỉ mỉ, đồng thời theo thứ tự phối hợp với bảy dụ nói trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa để đối trị:
a. Tâm tăng thượng mạn điên đảo mong cầu các công đức: Được đối trị bằng Nhà lửa.
b. Tâm tăng thượng mạn định chấp của Thanh văn: Được thí dụ bằng Cùng tử.
c. Tâm tăng thượng mạn định chấp của Đại thừa: Được đối trị bằng thí dụ Đám mưa:
d. Tâm tăng thượng mạn thật không mà chấp là có: Được đối trị bằng Hóa thành.
e. Tâm tăng thượng mạn tán loạn: Được đối trị bằng thí dụ Hạt châu buộc trong vạt áo.
g. Tâm tăng thượng mạn cho rằng thật có công đức: Được đối trị bằng thí dụ Hạt châu trên đỉnh.
h. Tâm tăng thượng mạn cho rằng thật không có công đức: Được đối trị bằng thí dụ Thầy thuốc.
Ngoài ra, so sánh mình với người rồi sinh ra tâm tự phụ, cao ngạo cũng gọi tăng thượng mạn, thông thường gọi là “cống cao ngã mạn”.