Lược khảo 152 bài kinh Trung bộ
Phẩm Sìhanàda (từ kinh số 21-30)
21. Kinh Ví dụ cái cưa (Kakacùpama Sutta):
Bài kinh là lời thuyết giáo của Thế Tôn về cách thái sống nhu hòa, kham nhẫn, không bất mãn, phẫn nộ, sân hận. Bài kinh được giảng cho các tỷ kheo tại Jetavana, vườn Anàthapindika, ở Sàvatthì, nhân sự kiện tỷ kheo Moliyaphagguna sống liên hệ quá thân mật với các tỷ kheo ni.
Chuyện thuật rằng tỷ kheo Moliyaphagguna sống quá thân mật với các tỷ kheo ni đến độ bất kỳ tỷ kheo nào tỏ ý phiền trách các tỷ kheo ni thì vị ấy liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội đối với tỷ kheo ấy. Đức Phật khiển trách tỷ kheo Moliyaphagguna về lối sống ấy, dạy rằng một tỷ kheo phải từ bỏ những dục vọng và tư duy liên hệ đến thế tục, giữ tâm không bị biến nhiễm, không nói lời ác ngữ, sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận, nếu có người khác công kích chỉ trích hoặc tấn công mình hay người thân của mình bằng phương tiện này hay phương tiện khác.
Nội dung bài kinh gồm nhiều chuyện kể và ẩn dụ được sử dụng nhằm minh họa thái độ nhu hòa khan nhẫn của các tỷ kheo nhờ khéo từ bỏ ác pháp, sống theo thiện pháp.
Từ bài kinh, chúng ta có được thông tin về năm loại ngôn ngữ hay năm cách nói theo quan điểm Phật giáo:
1. Nói đúng thời, không phải phi thời;
2. Nói lời chân thực, không phải không chân thực;
3. Nói lời nhu nhuyến, không phải thô bạo;
4. Nói lời lợi ích, không phải không lợi ích;
5. Nói với từ tâm, không phải với sân tâm.
Trong mối liên hệ với người khác, đức Phật khuyên các tỷ kheo học tập thái độ như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu vời từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận,không sân.”
Cuối bài kinh là lời dạy về cái cưa được đức Phật sử dụng nhằm nhấn mạnh thái độ khan nhẫn lớn của người xuất gia trong trường hợp bị người khác tấn công:
“Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.’ Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.
Này các Tỷ-kheo, nếu các Ông luôn luôn suy tư lời dạy ví dụ cái cưa này, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các Ông không kham nhẫn được chăng? Do vậy, hãy luôn luôn suy tư lời dạy ví như cái cưa này, và các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu ngày.”
22. Kinh Ví dụ con rắn (Alagaddùpama Sutta):
Kinh này đo đức Thế Tôn thuyết giảng cho các tỷ kheo tại Jetavana, vườn Anàthapindika, ở Sàvatthì, nhân sự kiện tỷ kheo Arittha khởi lên ác tà kiến cho rằng việc thọ dụng các dục mà Thế Tôn gọi là pháp chướng ngại thật sự không có gì chướng ngại.
Bài kinh đề cập một loạt vấn đề liên quan đến thái độ học pháp hay phương pháp nắm bắt và thực hành đúng đắn lời Phật dạy.
Mở đầu bài kinh, sau khi khiển trách tỷ kheo Arittha về quan điểm sai lầm của ông, Thế Tôn nêu rõ các dục (kàmà) là pháp chướng ngại (antaràyikadhammà): “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn.” Thế Tôn ví các dục như (1) khúc xương, (2) miếng thịt, (3) bó đuốc cỏ khô, (4) hố than hừng, (5) giấc mộng, (6) vật dụng cho mượn, (7) trái cây, (8) lò thịt, (9) gậy nhọn, (10) đầu rắn, càng thọ dụng thì càng gặp nhiều nguy hại.
Thái độ học pháp – dụ người bắt rắn:
A. Kẻ ngu si (moghapurisa) học pháp được lưu giữ trong các thể loại như kinh, ứng tụng, giải thuyết, phúng tụng, cảm hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng, nhưng không quán sát các pháp với trí tuệ nên ý nghĩa các pháp không trở nên rõ ràng. Người này học pháp chỉ vì mục đích muốn đả kích người khác hay vì khoái khẩu biện luận nên không đạt được mục tiêu của việc học pháp. Người này vì nắm giữ sai lạc các pháp nên bị bất hạnh khổ đau lâu dài. Thế Tôn ví người này với một người muốn tìm bắt rắn nước, trông thấy con rắn liền bắt nó ở đuôi hay ở phần bụng nên bị con rắn quay đầu lại cắn khiến đi đến chết hay khổ đau gần như chết.
B. Vị thiện gia nam tử (kulaputta) học pháp được lưu giữ trong các thể loại như kinh, ứng tụng, giải thuyết, phúng tụng, cảm hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng, có quán sát các pháp với trí tuệ nên ý nghĩa các pháp trở nên rõ ràng. Người này học pháp không phải vì mục đích muốn chỉ trích đả kích người khác hay vì muốn khoái khẩu biện luận nên đạt được mục tiêu của sự học pháp. Người này do khéo nắm bắt các pháp nên được hạnh phúc an lạc lâu dài. Sự kiện này được ví với sự kiện một người tìm bắt rắn nước, trông thấy con rắn liền dùng chiếc gậy hay cái nạn đè cổ con rắn rồi bắt nó ở đầu nên bắt được con rắn một cách an toàn.
Thái độ không chấp thủ các pháp – dụ chiếc bè:
Đức Phật dạy pháp của ngài, tựa như chiếc bè, dùng để vượt qua, chứ không phải để nắm giữ. Có một người sau khi đi qua một quãng đường dài gặp phải một vùng nhước sâu, bờ bên này đầy nguy hiểm, bờ bên kia được an toàn, nhưng không có cầu hay thuyền để vượt qua. Người này liền dùng cỏ cây kết thành một chiếc bè rồi nhờ sức chèo chống của tay chân sang được bờ bên kia. Qua bờ kia rồi, vị này suy nghĩ: “Chiếc bè này thật lợi ích cho ta, nhờ nó ta đã qua được bờ này một cách an toàn.” Suy nghĩ như vậy, vị này liền vác chiếc bè ấy lên vai và tiếp tục ra đi. Đức Phật dạy người ấy không sử dụng đúng chức năng của chiếc bè. Giả sử người ấy, sau khi đến được bờ bên kia, kéo chiếc bè lên chỗ đất khô hay nhận chìm xuống nhước, làm như thế, theo Ngài, là khéo sử dụng chiếc bè. Đức Phật dùng ảnh dụ này để nhấn mạnh rằng giáo pháp của ngài cũng tựa như chiếc bè, được sử dụng vì mục đích vượt qua khổ đau, không phải vì mục đích nắm giữ hay chấp thủ.
Thái độ đối với 6 kiến xứ – 2 hạng người:
A. Kẻ vô văn phàm phu (puthujjana), không thân cận các bậc thánh và bậc chân nhân, không học tập, không thuần thục pháp của các bậc thánh và bậc chân nhân, xem (1) sắc, (2) thọ, (3) tưởng, (4) hành, (5) cái được thấy, được nghe, được nghĩ đến, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư và (6) bất cứ kiến xứ nào nói rằng “đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, trường trú, không thay đổi, tôi sẽ trú như thế này mãi mãi” là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi.
B. Vị đa văn thánh đệ tử (ariyasàvaka), luôn thân cận các bậc thánh và bậc chân nhân, học tập và thuần thục pháp của các bậc thánh và bậc chân nhân, không xem sắc, thọ, tưởng, hành, cái được thấy, được nghe... và bất cứ kiến xứ nào bảo rằng “đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn....” là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi. Vị này do quán sát như vậy nên đối với sự vật thật chẳng có không có lo âu, sầu muộn.
Thái độ đối với các pháp không thực có ở trong và ở ngoài khiến gây lo âu phiền muộn và không gây lo âu phiền muộn:
Một vị tỷ kheo bạch hỏi đức Phật có cái gì không thực có ở ngoài và ở trong có thể gây nên lo âu sầu muộn và không gây lo âu sầu muộn cho một người. Đức Phật dạy có như vậy và bốn định nghĩa sau đây là câu trả lời của ngài:
- Cái không thực có ở ngoài khiến gây lo âu, sầu muộn: Nghĩ rằng: “Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi; cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy,” con người rơi vào lo âu, sầu muộn.
- Cái không thực có ở ngoài không gây lo âu, sầu muộn: Không nghĩ rằng: “Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi; cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy,” con người không rơi vào lo âu, sầu muộn.
- Cái không thực có ở trong khiến gây lo âu, sầu muộn: Khởi lên tà kiến: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này mãi mãi.” Khi được nghe Thế Tôn hay đệ tử ngài thuyết pháp nhằm bạt trừ mọi thiên kiến, cố chấp, tuỳ miên, sự tịnh chỉ các hành, đoạn tận sanh y, diệt trừ khát ái, hướng đến ly tham, đoạn diệt, an tịnh, Niết bàn, liền suy nghĩ: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, ta sẽ bị tiêu diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại” Với lối suy nghĩ như vậy, con người rơi vào lo âu, sầu muộn.
- Cái không thực có ở trong không gây lo âu, sầu muộn: Không có tà kiến: “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn...” Khi được nghe Thế Tôn hay đệ tử ngài thuyết pháp... hướng đến ly tham, đoạn diệt, Niết bàn, không suy nghĩ: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt.... không tồn tại.” Không suy nghĩ như vậy, con người không rơi vào lo âu, sầu muộn.
Luận về vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anatta):
Thế Tôn (hỏi): “(Các ngươi) có thể nắm giữ hay thấy một vật sở hữu (pariggaha) gì được nắm giữ sẽ thường còn, thường, hằng, thường trú, không biến chuyển, sẽ vĩnh viễn tồn tại?”
Các tỷ kheo (đáp): “Không.”
Thế Tôn (xác chứng): “Ta cũng vậy.”
Thế Tôn: “(Các ngươi) có thể chấp một ngã luận thủ (attavàdùpàdana) nào và có thấy một ngã luận thủ nào được chấp thủ mà không khiến khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não?”
Các tỷ kheo: “Không.”
Thế Tôn: “Ta cũng vậy.”
Thế Tôn: “(Các ngươi) có thể y chỉ kiến y (ditthinissaya) nào và có thấy kiến y nào được y chỉ mà không khiến khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não?”
Các tỷ kheo: “Không.”
Thế tôn: “Ta cũng vậy.”
Thế Tôn: “Nếu có ngã (atta) thời có ngã sở thuộc (attaniya). Nếu có ngã sở thuộc thời có ngã (của tôi). Nếu ngã và ngã sở thuộc không được chấp nhận là thường còn, thường hằng, thời kiến xứ này – “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như vật mãi mãi” – phải chăng và triệt để ngu si?”
Các tỷ kheo: “Đúng vậy.”
Thế tôn: “Này các tỷ kheo, sắc là thường hay vô thường?”
Các tỷ kheo: “Vô thường.”
Thế Tôn: “Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
Các tỷ kheo: “Là khổ.”
Thế Tôn: “Cái gì vô thường, khổ, chịu biến hoại thì có hợp lý chăng khi ta xem cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
Các tỷ kheo: “Không vậy.”
(Cũng vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức)
Thế Tôn: “Do vậy, này các tỷ kheo, đối với bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, hiện tại hay vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, thắng hay liệt, xa hay gần, các ngươi cần phải quán sát như sau: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.’ (Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng quán như thế). Nhờ quán sát như vậy, vị đa văn thánh đệ tử yểm ly đối vvới sắc, thọ, tưởng, hành, thức; do yểm ly nên ly tham; do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết: ‘Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.’”
Một người được giải thoát như vật thì được gọi là người đã:
- Cất đi các chướng ngại, nghĩa là đã đoạn tận vô minh.
- Lấy đầy các thông hào, nghĩa là đã chấm dứt sanh tử luân hồi.
- Nhổ lên cột trụ, tức là đã đoạn trừ khát ái.
- Mở tung lề khóa, nghĩa là đã diệt trừ 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân)
- Bậc thánh, đã hạ cây cờ xuống, tức là đã đoạn trừ ngã mạn.
Lập trường và kết quả thuyết pháp của Như Lai:
Đức Phật tuyên bố một vị đã đạt được giải thoát thời không để lại dấu vết (anvesam). Nghe vậy, các ngoại đạo cho rằng Sa môn Gotama là người chủ trương hư vô (venayika), đề cao lý thuyết đoạn diệt đối với loài hữu tình. Thế Tôn xác nhận ngài không có như thế, ngài chỉ thuyết pháp, nói lên sự khổ và diệt khổ. Thái độ của ngài là không bất mãn phẩn nộ khi bị chỉ trích hay phỉ báng, không vui mừng hoan hỷ khi được tôn kính hay tán thán; ngài chỉ nghĩ: “Đây là điều xưa kia từng biết rõ, đây là trách nhiệm Như Lai phải làm.” Ngài khuyên các tỷ kheo nên có thái độ tương tự và hãy từ bỏ những gì (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) không phải của mình để được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Ngài dạy pháp do ngài thuyết giảng đưa đến các kết quả sau đây:
- A la hán (Arahanta), tức chỉ cho một người đã đoạn trừ 10 kiết sử gồm 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân) và 5 thượng phần kiết sử (sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh), đã thành tựu mục đích phạm hạnh: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái (sinh tử) này nhữa.”
- Bất lai (Anàgàmì), chỉ cho người đã đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân), sau khi thân hoại mạng chung được sanh ở cõi Tịnh Cư thiên và tại đó nhập Niết bàn, không còn trở lại đời này.
- Nhất lai (Sakadàgàmì), chỉ cho người đã đoạn trừ ba kiết sử đầu (thân kiến, nghi, giới cấm thủ) và làm muội lược tham, sân, si. Vị này còn sanh lại cõi đời này một lần nữa trước khi chấm dứt nỗi khổ đau sanh tử.
- Thất lai (Sotàpanna), chỉ cho người đã đoạn trừ ba trong số 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ), còn tái sanh qua lại trong cõi trời và cõi người tối đa bảy lần trước khi hoàn toàn chấm dứt khổ đau.
- Tuỳ pháp hành (Dhammànusàrino), chỉ cho người sống theo giáo pháp của đức Phật, quyết chắc hướng đến giác ngộ (sambodhiparàyanà).
- Tuỳ tín hành (Saddhànusàrino), chỉ cho người sống theo niềm tin của chính mình (ở đây chỉ cho đức tin Phật giáo), quyết chắc hướng đến giác ngộ (sambodhiparàyanà).
- Người có lòng tin và thương mến Như Lai (Saddhàmatta-pemamatta) quyết chắc hướng về chư thiên hay cảnh giới an lạc (saggaparàyanà/ devaparàyanà).
23. Kinh Gò mối (Vammika Sutta):
Bài kinh là câu chuyện ẩn dụ tu tập xoay quanh thân tứ đại, do một vị Thiên nói cho tỷ kheo Kumàrakassapa và sau đó được đức Thế Tôn giải thích. Chuyện kể thế này:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Kumara-kassapa trú tại Andhavana. Rồi một vị Thiên, đêm đã gần tàn, với hào quang rực rỡ chiếu sáng toàn thể Andhavana, đến chỗ Tôn giả Kumarakassapa ở, sau khi đến, bèn đứng một bên. Sau khi đứng một bên, vị Thiên ấy nói với Tôn giả Kumarakassapa:
“Tỷ-kheo, Tỷ-kheo!” Gò mối này ban đêm phun khói, ban ngày chiếu sáng. Một Bà-la-môn nói như sau: “Này kẻ trí, hãy cầm gươm và đào lên.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một then cửa: “Thưa Tôn giả, một then cửa.”
Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy then cửa lên, cầm gươm đào thêm.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con nhái: “Thưa Tôn giả, một con nhái.”
Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy đem con nhái lên, cầm gươm đào thêm.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con đường hai ngã: “Thưa Tôn giả, một con đường hai ngã.”
Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí hãy lấy con đường hai ngã lên, cầm gươm đào thêm.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một đồ lọc sữa: “Thưa Tôn giả, một đồ lọc sữa.”
Vị Bà-la-môn nói: “Hãy lấy đồ lọc sữa lên, cầm gươm đào thêm.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con rùa: “Thưa Tôn giả, một con rùa.”
Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy con rùa lên, cầm gươm đào thêm.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một con dao phay: “Thưa Tôn giả, một con dao phay.”
Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy con dao phay lên, cầm gươm đào thêm”. Người có trí cầm gươm đào lên, thấy một miếng thịt: “Thưa Tôn giả một miếng thịt.”
Vị Bà-la-môn nói: “Này kẻ trí, hãy lấy miếng thịt lên, cầm gươm đào thêm.” Người có trí cầm gươm đào lên, thấy con rắn hổ: “Thưa Tôn giả, con rắn hổ.”
Vị Bà-la-môn nói: “Hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ.”
Rồi vị Thiên khuyên tỷ kheo Kumàrakassapa đến Thế Tôn hỏi về ý nghĩa. Thế Tôn giải thích như sau:
- Gò mối là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt.
- Cái gì thuộc về công việc ban ngày, ban đêm suy tầm, suy nghĩ, như vậy là ban đêm phun khói.
- Cái gì sau khi suy tầm, suy tư ban đêm, ban ngày đem ra thực hành, về thân, về lời nói, về ý, như vậy là ban ngày chói sáng.
- Vị Bà-la-môn là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
- Người có trí là đồng nghĩa với Tỷ-kheo hữu học.
- Cái gươm là đồng nghĩa với trí tuệ của bậc Thánh.
- Đào lên là đồng nghĩa với tinh tấn, tinh cần.
- Cái then cửa là đồng nghĩa với vô minh; đem then cửa lên là từ bỏ vô minh; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Con nhái là đồng nghĩa với phẫn nộ hiềm hận; đem con nhái lên là từ bỏ phẫn nộ hiềm hận; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Con đường hai ngã là đồng nghĩa với nghi hoặc; đem con đường hai ngã lên là từ bỏ nghi hoặc; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Đồ lọc sữa là đồng nghĩa với năm triền cái: dục tham triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi hoặc triền cái; đem bỏ đồ lọc sữa lên là từ bỏ năm triền cái; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Con rùa là đồng nghĩa với năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn; đem con rùa lên là từ bỏ năm thủ uẩn; này kẻ có trí cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Con dao phay là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng, tức là các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục hấp dẫn; lấy con dao phay lên là từ bỏ năm dục trưởng dưỡng; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Miếng thịt là đồng nghĩa với hỷ tham; lấy miếng thịt lên là từ bỏ hỷ tham; này kẻ có trí, cầm gươm đào lên là ý nghĩa này.
- Con rắn hổ là đồng nghĩa với vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc; hãy để con rắn hổ yên, chớ đụng chạm con rắn hổ, hãy đảnh lễ con rắn hổ, là ý nghĩa này.
24. Kinh Trạm xe (Rathavivùta Sutta):
Bài kinh là cuộc đàm luận Phật pháp xảy ra ở rừng Andhavana giữa hai vị đại đệ tử của đức Phật, Tôn giả Punna Mantàniputta, đệ nhất về thuyết pháp và Tôn giả Sàriputta, đệ nhất về trí tuệ. Nội dung cuộc đàm luận đề cập bảy cấp độ thanh tịnh hướng đến mục tiêu tối hậu Niết bàn, nhấn mạnh mục đích xuất gia sống phạm hạnh là để đạt cho được mục tiêu tối hậu Niết bàn, bảy cấp độ thanh tịnh chỉ là phương tiện cần thiết để thực hiện mục tiêu đó.
Câu chuyện bắt đầu bằng sự kiện các tỷ kheo ở các địa phương khác nhau, sau ba tháng an cư mùa mưa, đến yết kiến đức Thế Tôn ở Veluvana, xác nhận Tôn giả Punna Mantàniputta là vị tỷ kheo địa phương có đầy đủ giới đức và trí tuệ để hướng dẫn những người khác tu tập. Tôn giả Sàriputta có mặt trong buổi tiếp và nghĩ đến việc gặp gỡ đàm luận với Tôn giả Punna Mantàniputta.
Một thời gian sau đó, được tin Tôn giả Punna Mantàniputta đến yết kiến Thế Tôn ở Jetavana rồi sau đó đi vào rừng Andhavana để nghỉ trưa, Tôn giả Sàriputta liền đi theo Tôn giả Mantàniputta và cuộc đàm luận giữa hai vị tôn giả xảy ra tại Andhavana.
Tôn giả Sàriputta nêu câu hỏi:
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được giới thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được tâm thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được kiến thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được đoạn nghi thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được đạo tri kiến thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, mục đích sống Phạm hạnh có phải để được tri kiến thanh tịnh?
- Không phải, thưa Hiền giả Sàriputta.
- Hiền giả Punna, vậy mục đích sống Phạm hạnh là gì?
- Thưa Hiền giả Sàriputta, giới thanh tịnh chỉ có mục đích đạt cho được tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh chỉ có mục đích đạt cho được kiến thanh tịnh, kiến thanh tịnh chỉ có mục đích đạt cho được đoạn nghi thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích đạt cho được đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích đạt cho được đạo tri kiến thanh tịnh, đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích đạt cho được tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh có mục đích thực nghiệm vô thủ trước Niết bàn. Thưa Hiền giả Sàriputta, mục đích sống Phạm hạnh là để đạt cho được vô thủ trước Niết bàn.
“Ví như, Hiền giả Sàriputta, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Sàvatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Sàketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và Sàketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Sàvatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Sàketa, tại cửa nội thành.
Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:
- Tâu Đại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Sàvatthi đến Sàketa tại cửa nội thành?
Hiền giả Sàriputta, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?
Hiền giả Punna Mantàniputta, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn:
- Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Sàketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Sàketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại cửa nội thành.
Cũng vậy, này Hiền giả Sàriputta, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn.”
Câu chuyện kết thúc với việc hai tôn giả hỏi thăm nhau về tộc tánh và cùng tán thán nhau về đức hạnh và trí tuệ.
25. Kinh Bẫy mồi (Nivàpa Sutta):
Bài kinh được đức Thế Tôn thuyết giảng cho các tỷ kheo tại Jetavana, vườn Anàthapindika, ở Sàvatthì. Nội dung bài kinh nhấn mạnh pháp môn tu thiền dưới hình thức nêu trỏ bốn hạng Sa môn, Bà la môn có bốn khuynh hướng tu tập khác nhau được ví như bốn đàn nai. Ba hạng Sa môn, Bà la môn đầu do không tu thiền nên lần lượt rơi vào cạm bẫy (dục vọng) của ác ma. Chỉ hạng Sa môn, Bà la môn thứ tư nhờ tu thiền nên thoát khỏi tầm khống chế của ma lực dục vọng. Mở đầu bài kinh, đức Thế Tôn dùng ảnh dụ người thợ săn bẫy mồi để nói về sự nguy hiểm của các dục vọng thế gian:
“Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai không nghĩ rằng: ‘Ta gieo đồ mồi này cho đàn nai ăn để đàn ấy được sống lâu, được tốt đẹp thêm và được nuôi dưỡng lâu dài hơn,’ Chư Tỷ-kheo, người thợ săn bẫy mồi khi gieo đồ mồi cho đàn nai nghĩ rằng: ‘Ta gieo đồ mồi này cho đàn nai, để đàn này xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Sau khi xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê loạn; do mê loạn, chúng trở thành phóng dật; do phóng dật chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn, giữa các đồ mồi này.’
Bốn đàn nai:
1. Đàn nai thứ nhất xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Do xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai đầu tiên này không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
2. Đàn nai thứ hai hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú. Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước khan hiếm, thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình đàn nai ấy trở thành hết sức gầy yếu, sức lực của chúng bị kiệt quệ. Vì sức lực bị kiệt quệ, đàn nai ấy trở lại các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi. Vì chúng ở đây xâm nhập, tham đắm, ăn các đồ mồi, nên trở thành mê loạn. Do mê loạn, chúng trở thành phóng dật. Do phóng dật, chúng trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Như vậy đàn nai thứ hai không thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
3. Đàn nai thứ ba làm một chỗ ẩn nấp gần các đồ mồi này của người thợ săn bẫy mồi. Sau khi làm chỗ ẩn nấp xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi ấy do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập không tham đắm ăn các món ăn, chúng không mê loạn. Do không mê loạn, chúng không phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi. Nhưng người thợ săn bẫy mồi và quyến thuộc người thợ săn bẫy mồi biết được sự tinh khôn, xảo quyệt của đàn nai thứ ba, chúng bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi, nhờ đó chúng thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ ba. Như vậy đàn nai thứ ba này không thoát được như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
4. Đàn nai thứ tư suy làm một chỗ ẩn nấp, tại một nơi mà người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy không thể đến được. Làm chỗ ẩn nấp tại đó xong, không xâm nhập, không tham đắm, chúng ăn các đồ mồi do người thợ săn bẫy mồi gieo ra. Vì không xâm nhập, không tham đắm ăn các món ăn, chúng không mê loạn. Do không mê loạn, chúng không phóng dật. Do không phóng dật, chúng không trở thành những vật bị làm theo ý người ta muốn giữa các đồ mồi của người thợ săn bẫy mồi. Người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy biết rõ sự tinh không, xảo quyệt của đàn nai thứ tư. Chúng bao vây xung quanh các đồ mồi được gieo với những cây cột to lớn và những bẫy sập cùng khắp mọi nơi với hy vọng tìm thấy chỗ đi về của đàn nai, nhưng người thợ săn bẫy mồi và những quyến thuộc của người ấy đã không thấy được chỗ ẩn nấp của đàn nai thứ tư này, chỗ chúng có thể đi để lấy đồ ăn. Rồi người thợ săn và những quyến thuộc của người ấy suy nghĩ: “Nếu chúng ta đánh phá đàn nai thứ tư này, chúng bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác; các đàn nai khác bị đánh phá sẽ đánh phá các đàn nai khác nữa. Như vậy toàn thể đàn nai sẽ từ bỏ các đồ mồi được gieo này. Vậy chúng ta chớ có can thiệp vào đàn nai thứ tư.” Như vậy, đàn nai thứ tư thoát khỏi như ý lực của người thợ săn bẫy mồi.
Các ảnh dụ được nêu trong bài kinh như sau:
- Đồ mồi đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
- Người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với Ác ma (dục vọng và vô minh), quyến thuộc của người thợ săn bẫy mồi đồng nghĩa với quyến thuộc của Ác ma.
- Các đàn nai đồng nghĩa với các hạng Sa-môn, Bà-la-môn.
- Đàn nai thứ nhất đồng nghĩa với hạng Sa-môn, Bà-la-môn xâm nhập, tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, nên trở thành mê loạn; vì mê loạn, họ trở thành phóng dật; vì phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma.
- Đàn nai thứ hai đồng nghĩa với hạng Sa-môn, Bà-la-môn hoàn toàn từ bỏ các đồ mồi và các vật dụng thế gian, từ bỏ các vật dụng đáng sợ hãi, đi sâu vào rừng và an trú. Họ trở thành những người ăn cỏ lúa, ăn lúa tắc, những người ăn gạo lức, những người ăn hột cải Nivara, những người ăn da vụn, những người ăn trấu, những người ăn nước bột gạo, những người ăn hột vừng, những người ăn cỏ, những người ăn phân bò, những người ăn trái cây, những người ăn rễ cây trong rừng, những người ăn trái cây rụng để sống. Cuối tháng mùa hạ, cỏ nước trở thành khan hiếm, thân hình của hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu. Vì thân hình hạng Sa-môn, Bà-la-môn ấy trở thành hết sức gầy yếu, nên sức lực tinh tấn của họ bị kiệt quệ. Vì sức lực tinh tấn bị kiệt quệ, nên tâm giải thoát bị kiệt quệ. Vì tâm giải thoát bị kiệt quệ, họ trở lui lại các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Ở đây, họ xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn. Do ở đây xâm nhập, tham đắm ăn các món ăn, chúng trở thành mê loạn. Do mê loan họ trở thành phóng dật. Do phóng dật, họ trở thành những người bị làm theo ý Ác ma muốn giữa các đồ mồi này và giữa các vật dụng thế gian. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma.
- Đàn nai thứ ba đồng nghĩa với hạng Sa-môn, Bà-la-môn không xâm nhập, không tham đắm ăn các đồ mồi do Ác ma gieo ra và các vật dụng thế gian. Không xâm nhập, không tham đắm, họ không ăn các đồ mồi nên không trở thành mê loạn. Do không mê loạn, họ không trở thành phóng dật. Do không phóng dật, họ không trở thành những người bị làm theo Ác ma muốn giữa các đồ mồi và các vật dụng thế gian. Nhưng rồi họ có những tà kiến như sau: “Thế giới là thường còn; thế giới là không thường còn; thế giới là hữu biên; thế giới là vô biên; mạng sống và thân thể là một; mạng sống và thân thể là khác; Như Lai sau khi chết có tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại; Như Lai sau khi chết có tồn tại và không tồn tại; Như Lai sau khi chết không tồn tại và không không tồn tại”. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này đã không thoát khỏi như ý lực của Ác ma.
- Đàn nai thứ tư đồng nghĩa với hạng Sa-môn, Bà-la-môn chuyên tâm tu thiền – Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Diệt thọ tưởng định, khiến Ác ma và Ác ma quyến thuộc không thể đến được, khiến chúng mù mắt, đoạn tuyệt mắt của chúng. Như vậy, hạng Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư đã thoát khỏi như ý lực của Ác ma.
Nhìn chung, bài kinh là một bức tranh phản ánh quan điểm và lối sống của các phong trào Sa môn, Bà la môn dưới thời đức Phật, kể cả quan điểm và lối sống Phật giáo. Hạng Sa môn, Bà la môn thứ nhất tiêu biểu cho quan điểm và lối sống của những người theo thuyết duy vật, chủ trương lối sống thụ hưởng dục lạc. Hạng Sa môn, Bà la môn thứ hai tiêu biểu cho quan điểm và lối sống của một số ẩn sĩ Bà la môn và các du sĩ phái Kỳ na (Jainism), chủ trương khổ hạnh. Hạng Sa môn, Bà la môn thứ ba đại diện cho những người theo lý thuyết và quan điểm siêu hình. Hạng Sa môn, Bà la môn thứ tư tiêu biểu cho quan điểm và lối sống “Trung đạo” Phật giáo, không đắm say dục lạc, không khổ hạnh ép xác, không chủ trương siêu hình, thực hành Giới, Định, Tuệ và giải thoát ngay tại thế gian.
26. Kinh Thánh cầu (Ariyapariyesana Sutta):
Bài kinh nhấn mạnh con đường xuất thế, là câu chuyện dài đề cập các kinh nghiệm của bậc Đạo sư, bắt đầu bằng những ưu tư khắc khoải của ngài về thực trạng khổ đau của kiếp nhân sinh lúc ngài còn sống ở gia đình, tiếp theo là sự kiện xuất gia, những kinh nghiệm học đạo với hai đạo sĩ thời danh Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta, sự kiện ngài rời hai vị đạo sư cũ đi đến Uruvela tự mình tu tập và chứng ngộ Vô thượng Bồ đề bên dòng sông Ni Liên, việc ngài do dự truyền bá chánh pháp, sự kiện Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu ngài thuyết pháp, sự kiện ngài xem xét căn tánh chúng sanh và quyết định lên đường thuyết pháp, việc ngài đi đến Baranasì và thuyết giảng cho năm vị ẩn sĩ cho đến lúc năm vị này chứng ngộ thánh quả. Sau cùng là lời dạy của ngài về năm dục lạc và pháp môn hành thiền được nhấn mạnh như là phương pháp giải thoát các trói buộc của ác ma. Bài kinh do Đức Phật thuyết giảng cho các tỷ kheo tại am thất vị Bà la môn Rammaka gần Pubbakotthaka, Sàvatthì.
Mở đầu bài kinh, nhân sự kiện các tỷ kheo đang tụ họp thảo luận chánh pháp tại am thất Bà la môn Rammaka, Thế Tôn đưa ra một lời khuyên rất hay làm kim chỉ nam cho nếp sống hay sinh hoạt hằng ngày của người xuất gia:
“Này các Tỷ-kheo, khi các Người hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: luận bàn đạo pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.”
Bàn luận đạo pháp tức học tập và thảo luận những vấn đề liên quan đến Phật pháp, khiến Bồ đề tâm tăng trưởng. Giữ sự im lặng của bậc Thánh tức là hành thiền, sống nếp sống an tịnh của bậc tự điều, không tán tâm tạp thoại.
Nội dung bài kinh gồm các vấn đề sau đây:
Các ưu tư về thực tại khổ đau của đức Phật trước khi xuất gia:
“Này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh. Và này các Tỷ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng và bạc là bị già. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già. Và này các Tỷ-kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bi bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh. Và này các Tỷ-kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị chết. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết. Và này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu, gà và heo là bị sầu; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sầu. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu. Và này các Tỷ-kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu la bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng và bạc là bị ô nhiễm. Và này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu.
Này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Thánh cầu.”
Lý do hay động cơ xuất gia của đức Phật:
“Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi Giác Ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.” Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Học đạo với Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta:
“Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: “Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này.” Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: “Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú”. Này các Tỷ-kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú. Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú”. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: “Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?” Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ có Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú”. Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: “Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?”- “Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. - “Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. - “Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!” Như vậy này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là Đạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ”. Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này. Được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta nói với Ta: “Này Tôn giả, hãy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú.” Này các Tỷ-kheo, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú. Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú.” Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?” Này các Tỷ-kheo được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú”. Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?” - “Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”. - “Này Hiền giả, tôi cũng đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy.” Thật lợi ích thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!” Như vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta-là Đạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.”
Thành đạo dưới cội ây Assattha bên bờ sông Neranjarà:
“Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: “Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn”. Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tấn”.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến khơi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa.”
Các suy tư thẩm sát liên quan đến việc thuyết pháp độ sinh:
“Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!”
Rồi này các Tỷ-kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: “Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế giới sẽ bi hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.” Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp tay hướng vái Ta và bạch với Ta: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bi nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe), những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp.”
Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài Người.
Khởi hành đi Baranasì để thuyết pháp cho nhóm năm ẩn sĩ:
“Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự đi đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo ở. Này các Tỷ-kheo, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến, đã cùng nhau thỏa thuận như sau: “Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đang đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy, chớ có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi.” Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến gần, năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với nhau. Có người đến đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ ngồi, có người đem nước rửa chân đến. Rồi Ta nói với năm Tỷ kheo ấy:
- Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau khi tự tri, tư chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, Ta đã làm cho nhóm năm Tỷ-kheo chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho hai Tỷ-kheo. Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Đồ ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực.. Đồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, chúng năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng, sau khi được Ta khuyến giáo, tự mình bi sanh, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết... cái không chết... tự mình bi sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến khởi lên nơi họ: “Sự giải thoát của chúng ta không bị dao động, đây thức gì được hiện khởi như vậy đều quy là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa.”
Các dục, sự nguy hại và phương pháp thoát ly:
“Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... (như trên)... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là năm dục trưởng dưỡng. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại của chúng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các Người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn.”
Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác Ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức Vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt khỏi tầm tay của Ác ma.”
Nhìn chung, bài kinh là một tài liệu quý cung cấp nhiều thông tin quan trọng liên quan đến cuộc đời đức Phật, lý do xuất gia, kinh nghiệm tu tập, sự chứng đạo và bước đầu sự nghiệp giáo hóa của ngài. Chỉ thiếu các thông tin về những năm tháng tu khổ hạnh của ngài (được đề cập khá chi tiết trong hai bài kinh, Đại kinh Sư tử hống và Đại kinh Saccaka, Trung Bộ), bài kinh là nguồn sử liệu quan trọng và cần thiết cho việc nghiên cứu khoảng thời gian đầu tiên của sự kiện xuất gia và giáo hóa của đức Phật. Bài kinh cũng cho ta biết “Idapaccàyata Paticcasamuppàda” (Y Tánh Duyên Khởi Pháp) là thuật ngữ đầu tiên được đức Phật sử dụng để chỉ giáo pháp của ngài, ngoài các thuật ngữ Majjhimà Patipadà (Trung đạo) và Dhammavinaya (Pháp luật)… được dùng về sau, như được thấy trong Kinh tạng Pàli. Majjhimà Patipadà là thuật ngữ được đức Phật dùng để chỉ giáo pháp của ngài ở bài pháp đầu tiên, kinh Dhammacakkappavattana, giảng cho năm ẩn sĩ tại Migadaya, Isipatana.
27. Tiểu kinh Ví dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama Sutta):
Bài kinh gồm hai phần. Phần đầu là câu chuyện đàm luận giữa Bà la môn Jànussoni và du sĩ Pilotika về năng lực cảm hóa của đức Thế Tôn và phần hai là bài thuyết giảng của Thế Tôn cho Bà la môn Jànussoni về giáo pháp Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến của ngài.
Nhân duyên dẫn đến bài thuyết giảng của đức Thế Tôn là câu chuyên đàm luận giữa Bà la môn Jànussoni và di sĩ Pilotika. Bà là môn Jànussoni gặp du sĩ Pilotika trên đường từ chỗ Thế tôn trở về, được nghe câu trả lời rất mục tin tưởng đức Phật của du sĩ Pilotika liền hỏi lý do. Pilotika nêu bốn lý do (dụ cho bốn dấu chân Như Lai, đồng nghĩa với dấu chân voi chúa) khiến ông tin tưởng Tam bảo:
1. Lý do thứ nhất (dấu chân thứ nhất): Pilotika thấy rằng có một số Sát đế lỵ bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đã phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: “Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này”. Họ sắp đặt câu hỏi: “‘Chúng ta, sau khi đến, sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này”. Những vị này nghe: “Sa-môn Gotama đã đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này”. Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp thoại, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Được Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Do thấy sự kiện này, (dụ cho dấu chân thứ nhất này của Sa-môn Gotama), Pilotika đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì.”
2. Lý do thứ hai (dấu chân thứ hai): Pilotika thấy có một số Bà-la-môn bác học… (như trên).
3. Lý do thứ ba (dấu chân thứ ba): Pilotika tôi thấy có một số gia chủ bác học... (như trên).
4. Lý do thứ tư (dấu chân thứ tư): Pilotika thấy có một số Sa-môn bác học… Trái lại, họ xin phép Sa-môn Gotama được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sa-môn Gotama cho họ được xuất gia. Được xuất gia như vậy, một số các vị ấy sống một mình, không phóng dật, nỗ lực, tinh cần, và không bao lâu tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, ngay trong hiện tại, mục đích tối thượng của phạm hạnh mà những Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Họ nói như sau: “Thật sự chúng ta gần hoại vong. Thật sự chúng ta gần hoại diệt. Xưa kia chúng ta không phải là Sa-môn lại tự xem là Sa-môn, không phải là Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải là bậc A-la-hán, lại tự xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay chúng ta mới thật là Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán”. Khi tôi thấy dấu chân thứ tư của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì.”
Sau câu chuyện với du sĩ Pilotika, Bà la môn Jànussoni đến thăm đức Phật ở Jetavana, thuật lại toàn bộ nội dung cuộc nói chuyện của mình với du sĩ Pilotika. Đức Thế Tôn lần lượt giảng cho Jànussoni về ý nghĩa dấu chân Như Lai (voi chúa) theo quan điểm Ngài là người chỉ dạy con đường Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến mà bất kỳ người nào thực hành đầy đủ mới có thể đi đến kết luận chắc chắn: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì.” Con đường ấy gồm:
1. Thành tựu học giới: Tỷ-kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các loài hữu tình, từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp, từ bỏ không phạm hạnh, sống theo phạm hạnh, sống tránh xa (không phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp, từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức; từ bỏ dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ nhận các hạt sống; từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái; từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ nhận cừu và dê; từ bỏ nhận gia cầm và heo; từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai; từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Vị ấy bằng lòng (tri túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không lỗi lầm.
2. Hộ trì các căn: Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không vẩn đục.
3. Chánh niệm tỉnh giác: Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.
4. Chọn nơi thích hợp để hành thiền: Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận, từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá, từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
5. Chứng và trú thiền thứ nhất: Vị ấy từ bỏ năm triền cái làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược ly dục, ly pháp ác bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì”.
6. Chứng và trú thiền thứ hai: Lại nữa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc, do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
7. Chứng và trú thiền thứ ba: Lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
8. Chứng và trú thiền thứ tư: Lại nữa, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai, nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
9. Thành tựu túc mạnh minh: Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
10. Thánh tựu thiên nhãn minh: Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
11. Thành tựu lậu tận minh: Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Đây là sự Khổ diệt”, biết như thật: “Đây là Con đường đưa đến khổ diệt”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là các lậu hoặc diệt”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt.” Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
12. Thành tựu giải thoát, giải thoát tri kiến: Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa.” Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Này Bà-la-môn, tới mức độ này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì.”
Bài kinh kết thúc vời lời tán thán đức Phật của Bà la môn Jànussoni và việc ông xin quy y Tam bảo
Nhìn chung, bài kinh là nguồn thông tin quan trọng đối với công tác nghiên cứu. Ngoài giáo pháp truyền thống Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến do đức Phật nói cho Bà la môn Jànussoni, câu chuyện giữa Bà la môn Jànussoni và du sĩ Pilotika cung cấp một số thông tin đáng chú ý. Bốn nhận xét khách quan của du sĩ Pilotika về đức Phật một mặt cho thấy sự thành công của ngài trong lãnh vực thuyết pháp độ sinh, mặt khác phản ánh các hoạt động tư tưởng khá phức tạp của xã hội Ấn Độ dười thời đức Phật.
28. Đại kinh Vì dụ dấu chân voi (Mahàhatthipadopama Sutta):
Bài kinh do Tôn giả Sàriputta (Xá Lợi Phất) thuyết giảng cho các tỷ kheo tại Jetavana, vườn Anàthapindika, ở Sàvatthì. Bài kinh dùng ví dụ dấu chân voi để nói về tầm quan trọng, tính thu nhiếp của Tứ thánh đế, tuy nhiên nội dung tập trung nói về Khổ thánh đế dưới hình thức phân tích Ngũ uẩn nhằm nhấn mạnh sự thật duyên sinh, vô thường, vô ngã của Ngũ uẩn.
Bài kinh bắt đầu bằng định nghĩa cơ bản về Khổ thánh đế, rồi đến định nghĩa về Năm thủ uẩn. Rồi từ Năm thủ uẩn, sắc thủ uẩn được nêu ra phân tích dưới dạng bối Đại, tức Địa đại (hay địa giới), Thủy đại (thủy giới), Hỏa đại (hỏa giới), Phong đại (phong giới). Sàriputta nói rõ về sự thật duyên sinh, vô thường, vô ngã của sắc thủ uẩn hay bốn đại:
“Chư Hiền, thế nào là địa giới? Có nội địa giới, có ngoại địa giới. Chư Hiền, thế nào là nội địa giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội địa giới. Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. Cần phải như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, trong thời ấy ngoại địa giới bị biến mất. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại địa giới xưa ấy có thể nêu rõ, tánh hủy hoại có thể nêu rõ, tánh đoạn diệt có thể nêu rõ, tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.
Chư Hiền, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Chư Hiền thế nào là nội thủy giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, (viêm đàm dịch) mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới, đều thuộc về thủy giới. Cần phải như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, nước cuốn trôi làng, cuốn trôi thị trấn, cuốn trôi thành phố, cuốn trôi xứ, cuốn trôi quốc độ. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương hạ thấp một trăm do-tuần, hạ thấp hai trăm do-tuần, hạ thấp ba trăm do-tuần, hạ thấp bốn trăm do-tuần, hạ thấp năm trăm do-tuần, hạ thấp sáu trăm do-tuần, hạ thấp bảy trăm do-tuần. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến bảy cây ta-la, dâng cao đến sáu cây ta-la, dâng cao đến năm cây ta-la, dâng cao đến bốn cây ta-la, dâng cao đến ba cây ta-la, dâng cao đến hai cây ta-la, dâng cao chỉ đến một cây ta-la. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương cao đến bảy đầu người, dâng cao đến sáu đầu người, dâng cao đến năm đầu người, dâng cao đến bốn đầu người, dâng cao đến ba đầu người, dâng cao đến hai đầu người, dâng cao chỉ đến một đầu người. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến nửa thân người, dâng cao chỉ đến hông, dâng cao chỉ đến đầu gối, dâng cao chỉ đến gót chân. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương không có để thấm ướt đốt ngón chân. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại thủy giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ...
Chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy; cái gì khiến cho những vật được ăn uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới. Cần phải như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi hỏa giới dao động. Lửa thiêu cháy làng, thiêu cháy thị trấn, thiêu cháy thành phố, thiêu cháy xứ, thiêu cháy quốc độ. Lửa cháy cho đến cuối hàng cây cối, cho đến cuối hàng đường lớn, cho đến cuối hàng chân núi, cho đến cuối hàng thủy biên, hay cho đến cuối hàng khu đất khả ái, rồi lửa bị tắt vì không nhiên liệu. Chư Hiền, một thời xảy ra khi loài người đi kiếm lửa phải dùng lông gà và dây gân. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại hỏa giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ...
Chư Hiền, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc động tánh, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các chi tiết (tay chân), hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Sau khi thấy như thật phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi ngoại phong giới dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn, thổi bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc độ. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi trong tháng cuối mùa hạ, loài người tìm cầu gió nhờ lá cây ta-la, nhờ cây quạt, và người ta không mong tìm được cỏ tại chỗ có rạch nước chảy. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại phong giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.”
Quán Năm uẩn là duyên sinh, vô thường để không khởi sân hận phiền não: “Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: “Khổ thọ khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên gì? Do nhân duyên xúc vậy”. Vị ấy thấy xúc là vô thường; vị ấy thấy thọ là vô thường; vị ấy thấy tưởng là vô thường; vị ấy thấy hành là vô thường; vị ấy thấy thức là vô thường; tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng. Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau: “Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm”. Thế Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: “Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ý phẫn nộ thì người ấy không làm đúng lời ta dạy”. Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đãi, niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải được thực hành.”
Quán năm uẩn là duyên sinh để nhiếp thục tham dục, chấm dứt khổ đau: “Chư Hiền, như một khoảng trống được bao vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi cỏ, bởi bùn, được biết là một nhà ở. Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống được bao vây bởi xương, bởi dây gân, bởi thịt, bởi da, được biết là một sắc pháp. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, nhưng ngoại sắc không vào trong tầm mắt, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, có sự quy tục xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi. Bất cứ sắc pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều được quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: “Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập hợp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi.” Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt.”
Chư Hiền, nếu nội tại không bị hư hại... nếu lỗ mũi không bị hư hại... nếu lưỡi không bị hư hại... nếu thân không bị hư hại... nếu nội ý căn không bị hư hại nhưng ngoại pháp không vào trong tầm của ý căn, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi. Bất cứ pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: “Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập họp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi.” Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt.” Cho đến mức độ này, chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.
Tóm lại, bài kinh gồm các phân tích sâu sắc về Ngũ uẩn, giúp làm sáng tỏ sự thật duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã của thân năm uẩn, đặc biệt là sắc uẩn.
29. Đại kinh Thí dụ lõi cây (Mahàsàropama Sutta):
Bài kinh do đức Thế Tôn thuyết giảng cho các tỷ kheo tại núi Linh Thứu (Gijjhkùta) gần thành Vương Xá (Ràjagaha), nhân sự kiện Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) vì danh vọng lợi dưỡng từ bỏ chúng tăng ra đi thành lập hội chúng riêng. Bài kinh không cho biết nhiều về nhân duyên ra đời của nó, nhưng từ thông tin Cullavagga thuộc Luật tạng Pàli, chúng ta có thể nói rằng bài kinh đã được Thế Tôn thuyết giảng sau khi hai tôn giả Sàriputta và Mahàmoggallàna nhận trách nhiệm đưa 500 tỷ kheo lầm lạc từ hội chúng Devadatta quay trở về. Sự kiện Devadatta vì danh vọng lợi dưỡng tách ly giáo hội thành lập hội chúng riêng đã lôi kéo 500 tỷ kheo trẻ vào con đường danh vọng. Sự việc xảy ra buộc đức Phật phải chỉ định Sàriputta và Mahàmoggallàna tìm mọi cách đưa 500 tỷ kheo quay trở về. Ràriputta và Mahàmoggallàna ra đi và thuyết phục được 500 tỷ kheo lầm lạc ấy quay về với chánh pháp. Và đúng như nội dung cho thấy, bài kinh chắc chắn đã được Thế Tôn thuyết giảng sau sự kiện ấy.
Bài kinh đề cập năm hạng người sống phạm hạnh, được ví như năm hạng người tìm kiếm lõi cây, đặc biệt nhấn mạnh tâm giải thoát bất động (akuppa cetovimutti), được ví như lõi cây (sàro), là mục đích tối hậu của đời sống phạm hạnh (Brahmacariya):
1. Hạng người sống phạm hạnh cành lá (sàkhàpalàsa).
2. Hạng người sống phạm hạnh vỏ ngoài (papatikà).
3. Hạng người sống phạm hạnh vỏ trong (taca).
4. Hạng người sống phạm hạnh giác cây (pheggu).
5. Hạng người sống phạm hạnh lõi cây (sàra).
Hạng người sống phạm hạnh cành lá:
Vị thiện gia nam tử xuất gia sống phạm hạnh, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng thì liền hoan hỷ, tự mãn, khen mình, chê người. Do thái độ này, vị ấy rơi vào mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Đức Phật ví người này với một người tìm kiếm lõi cây, đứng trước một cây cao lớn có lõi liền bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá mang đi tưởng là lõi cây. Như vậy người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể mang lại. Cũng vậy, vị tỷ kheo được gọi là người sống phạm hạnh cành lá, tức dừng lại ở tôn kính danh vọng, không đạt mục đích tối hậu của phạm hạnh, khi vị này do được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, khen mình, chê người, trở thành kẻ mê say, tham đắm, phóng dật.
Hạng người sống phạm hạnh vỏ ngoài:
Vị thiện gia nam tử xuất gia sống phạm hạnh, thành tựu được giới đức liền sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, khen mình, chê người. Do thái độ này, vị ấy rơi vào mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Đức Phật sánh người này với một người tìm kiếm lõi cây, đứng trước một cây cao lớn có lõi liền quả qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt lấy vỏ ngoài mang đi tưởng là lõi cây. Như vậy người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể mang lại. Cũng vậy, vị tỷ kheo được gọi là người sống phạm hạnh vỏ ngoài, tức dừng lại ở giới đức, không đạt được mục đích tối hậu của phạm hạnh, khi vị này do thành tựu giới đức sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, rơi vào khen mình, chê người, trở thành kẻ mê say, tham đắm, phóng dật.
Hạng người sống phạm hạnh vỏ trong:
Vị thiện gia nam tử xuất gia sống phạm hạnh, thành tựu thiền định liền sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, khen mình, chê người. Do thái độ này, vị ấy rơi vào mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Đức Phật ví người này với một người tìm kiếm lõi cây, đứng trước một cây cao lớn có lõi liền quả qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt lấy vỏ trong mang đi tưởng là lõi cây. Như vậy người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể mang lại. Cũng vậy, vị tỷ kheo được gọi là sống phạm hạnh vỏ trong, tức dừng lại ở thiền định, không đạt được mục đích tối hậu của phạm hạnh, khi vị này thành tựu thiền định sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, rơi vào khen mình, chê người, trở thành kẻ mê say, tham đắm, phóng dật.
Hạng người sống phạm hạnh giác cây:
Vị thiện gia nam tử xuất gia sống phạm hạnh, thành tựu tri kiến liền sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, khen mình, chê người. Do thái độ này, vị ấy rơi vào mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Đức Phật ví người này với một người tìm kiếm lõi cây, đứng trước một cây cao lớn có lõ liến bỏ qua lõi cây, chặt lấy giác cây mang đi tưởng là lõi cây. Như vậy người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể mang lại. Cũng vây, vị tỷ kheo được gọi là sống phạm hạnh giác cây, tức dừng lại ở tri kiến, không đạt được mục đích tối hậu của phạm hạnh, khi vị này do thành tựu tri kiến sinh tâm hoan hỷ, tự mãn, rơi vào khen mình, chê người, trở thành kẻ mê say, tham đắm, phóng dật.
Hạng người sống phạm hạnh lõi cây:
Vị thiện gia nam tử xuất gia sống phạm hạnh, thành tự tri kiến, sinh tâm hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến khen mình, chê người; không vì thành tựu tri kiến trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thời giải thoát (samayavimokkha). Đức Phật ví người này với một người tìm kiếm lõi cây, đứng trước một cây cao lớn có lõi, chặt lấy lõi cây mang đi biết đó là lõi cây. Như vậy người này đạt được mục tiêu mà lõi cây có thể mang lại. Cũng vậy, vị tỷ kheo được gọi là người sống phạm hạnh lõi cây, thành tựu mục đích tối hậu của phạm hạnh, khi vị này không vì lợi dưỡng, danh vọng, không vì thành tựu giới đức, không vì thành tựu thiền định, không vì thành tựu tri kiến mà tự mãn, khen mình, chê người, trở thành kẻ mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy tiếp tục thành tựu phi thời giải thoát (asamyavimokkha).
Kết thúc bài kinh, Đức Phật dạy sống phạm hạnh không phải vì mục đích lợi dưỡng, danh vọng, không phải vì mục đích thành tựu giới đức, không phải vì mục đích thành tựu thiền định, không phải vì mục đích thành tựu tri kiến, nhưng tâm giải thoát bất động (akuppa cetovimutti) chính là mục đích, là lõi cây, là mục tiêu tối hậu của phạm hạnh.
30. Tiểu kinh Ví dụ lõi cây (Cùlasàropama Sutta):
Bài kinh do đức Thế Tôn thuyết giảng cho Bà la môn Pingalakoccha tại Jetavana, vườn Anàthapindika, ở Sàvatthì. Bài kinh có nội dung tương tự như kinh 29, nêu rõ năm hạng người sống phạm hạnh chấp nhận năm mục tiêu khác nhau. Chỉ một vài sai khác nhỏ so với kinh 29 là ở lối diễn tả.
Chẳng hạn, trong bài kinh 29, khi nói về hạng người sống phạm hạnh vỏ ngoài, tức chỉ cho hạng tỷ kheo tự hoan hỷ bằng lòng với giới đức, bài kinh mô tả: “Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu, giới đức này, vị ấy khen mình chê người: “Ta là người trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp.” Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.” Ở kinh 30 này, vị ấy được mô tả như sau: “Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp”. Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động.”
Một khác biệt nữa giữa hai bản kinh là lối mô tả về trường hợp hạng tỷ kheo sống phạm hạnh lõi cây. Bài kinh 29 nói về vị ấy: “Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật. Vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy do thành tựu giới đức này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy, không do thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu thiền định nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy vì thành tựu tri kiến này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu được phi thời giải thoát. Này chư Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời giải thoát này.”
Ở bài kinh 30, vị tỷ kheo ấy được mô tả: “Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn, chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do tri kiến này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động.
Tỷ kheo ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Lại nữa, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Lại nữa, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Lại nữa, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Lại nữa, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Lại nữa, Tỷ-kheo vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Lại nữa, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định), sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ.”
Bài kinh kết thúc với việc đức Phật xác nhận tâm giải thoát bất động là mục tiêu tối hậu của phạm hạnh và sự kiện Bà la môn Pingalakoccha tán thán đức Phật, xin quy y Tam bảo.